Trang chủNội khoa

Nội Xoay Thai

Đại cương

Xoay thai là một thủ thuật nhằm chuyển thai nhi từ ngôi bất thường, khó hoặc không đẻ được thành ngôi đẻ được qua đường âm đạo. Có hai loại xoay thai là ngoại xoay thai và nội xoay thai (xoay thai ngoài và xoay thai trong).

Xoay thai ngoài thường tiến hành khi thai gần đủ tháng, mục đích là biến ngôi vai, ngôi mông thành ngôi thuận. Tuy nhiên phương pháp này thường nguy hiểm vì có thể gây vỡ tử cung, rau bong non, sang chấn cho thai…

Nội xoay thai có nghĩa là xoay thai trong buồng tử cung, tiến hành khi đẻ và thường làm khi đẻ thai thứ hai của cuộc chuyển dạ sinh song thai. Mục đích của xoay thai trong là chuyển ngôi vai thành ngôi mông.

Chỉ định

Chỉ định

Đẻ thai cuối – ngôi vai trong đỡ đẻ đa thai (thường là thai thứ hai trong đẻ song thai).

Đẻ một thai nhưng thai nhỏ, ngôi vai, tiên lượng thai khó có khả năng sống được.

Điều kiện

Cổ tử cung mở hết.

Còn ối.

Không có bất tương xứng đầu – chậu.

Thai không suy.

Chống chỉ định

Con so.

Không đủ điều kiện xoay thai.

Tử cung có sẹo mổ cũ.

Hết ối

Nơi không có phòng mổ, thiếu các phương tiện theo dõi, hồi sức cho sản phụ và trẻ sơ sinh.

Chuẩn bị

Người thực hiện

Bác sỹ sản khoa có kinh nghiệm.

Rửa tay, mặc áo, đi găng

Phương tiện

Găng vô khuẩn ít

Thuốc giảm co, giãn cơ, giảm đau, an thần: Papaverin 40mg, Dolosal

100mg…

Dịch truyền, các phương tiện để hồi sức mẹ và hồi sức thai nhi.

Bình Oxy.

Người bệnh:

Sản phụ được tư vấn trước khi tiến hành thủ thuật về các bước tiến hành, về thuận lợi và những nguy cơ có thể xảy ra. -Thông tiểu, vệ sinh âm hộ âm đạo.

Hồ sơ bệnh án: ngoài các thủ tục của một bệnh án thông thường nên ghi rõ tình trạng thai: ngôi thế của thai, dự kiến trọng lượng thai, tình trạng ối, dây rốn.

Các bước tiến hành

Thì 1: kiểm tra lại đủ các điều kiện trước khi xoay thai:

Cơn co thưa, còn ối, ngôi cao lỏng, cổ tử cung mở hết, khung chậu rộng, thai  nhỏ..

Khám kỹ xác định tình trạng thai, ngôi thai, vị trí của đầu và mông thai nhi

Thì 2: bấm ối, kéo thai

Bấm ối và đưa tay (tay thuận) vào buồng tử cung về hướng mông thai nhi để tìm chân thai nhi và kéo xuống (đã khám và xác định mông thai nhi bên nào của tử cung).

Trước khi kéo phải phân biệt chân hoặc tay thai nhi để khỏi kéo nhầm.

Tốt nhất là kéo cả hai chân của thai nhi cùng lúc, nếu khó quá phải kéo một chân thì kéo chân trước. Nếu kéo phải chân sau thì quay cho chân sau thành chân trước rồi kéo xuống.

Sau khi chuyển thành ngôi mông có thể để đẻ tự nhiên, tuy nhiên thông thường kéo từ từ thai nhi ra luôn (đại kéo thai).

Thì 3: bóc rau và kiểm tra sự an toàn của tử cung

Sau khi thai sổ phải bóc rau và kiểm tra sự an toàn của tử cung ngay, đây là chỉ định bắt buộc nhằm xem tử cung có tổn thương, vỡ hay không.

Kiểm tra cổ tử cung, âm đạo, âm hộ.

Chú ý: 

Nếu tử cung co cường tính, phần thai bị bóp chặt, xoay thai sẽ khó khăn nên phải kiểm soát cơn co bằng cách giảm co trước khi xoai thai.

Nếu phần thai đã xuống thấp, ối đã vỡ và chảy hết, tay thai nhi sa xuống…nói chung không đủ điều kiện phải mổ lấy thai.

Theo dõi và tai biến

Nhằm phát hiện các nguy cơ sau khi xoay thai trong là vỡ tử cung, chảy máu, choáng mất máu…

Theo dõi sát mạch, huyết áp, co hồi tử cung, ra huyết âm đao, hoặc biểu hiện chảy máu trong.

Nếu nội xoay thai không đúng chỉ định và kỹ thuật dễ xảy ra tai biến như vỡ tử cung, thai bị sang chấn, bong nhau, suy thai…

Nếu phát hiện vỡ tử cung phải hồi sức và mổ cấp cứu ngay. Khi mổ tùy tình trạng tổn thương mà giải quyết. Nếu sản phụ chưa có con, vết nứt nhỏ, không nhiễm trùng thì khâu phục hồi. Nếu sản phụ đã có đủ con, vết vỡ rộng, nham nhở, nhiễm trùng thì cắt tử cung.

Mọi ca sau khi can thiệp vào buồng tử cung phải dùng kháng sinh toàn thân đề phòng nhiễm trùng

BÌNH LUẬN

WORDPRESS: 0