Trang chủSÁCH DỊCH TIẾNG VIỆTKhí máu và các Xét nghiệm trong Hồi sức

Khí máu và các Xét nghiệm trong Hồi sức Cấp cứu, Ấn bản thứ 3. Chương 3: Diễn giải kết quả khí máu tĩnh mạch, mao mạch và máu dây rốn

Sản giật: Bệnh sinh, chẩn đoán, điều trị
[SÁCH DỊCH] Sản phụ khoa Căn bản. Phụ lục C. Các khía cạnh pháp lý trong Sản Phụ khoa
Phác đồ chẩn đoán và điều trị hạ đường huyết sơ sinh

Khí máu và các Xét nghiệm trong Hồi sức Cấp cứu, Ấn bản thứ 3
(Blood Gases and Critical Care Testing, Third Edition)
Tác giả: Toffaletti, John G., PhD – Nhà xuất bản Elsevier – Biên dịch: Ths.Bs Lê Đình Sáng


Chương 3: Diễn giải kết quả khí máu tĩnh mạch, mao mạch và máu dây rốn
Interpreting blood gas results on venous, capillary, and umbilical cord blood
John G. Toffaletti, PhD; Craig R. Rackley, MD
Blood Gases and Critical Care Testing, Chapter 3, 53-63


Sự khác biệt sinh lý giữa máu động mạch và tĩnh mạch đối với các phép đo khí máu và kiềm-toan

Hơn bất kỳ chất phân tích nào khác, pO₂, pCO₂, và pH thay đổi rõ rệt từ máu động mạch sang máu tĩnh mạch. Mặc dù pH dường như chỉ thay đổi một chút (ví dụ, từ 7,40 xuống 7,37 = chênh lệch 0,4%), nồng độ ion H thực tế lại có sự thay đổi tương đối lớn hơn nhiều, đi từ 3,98×10⁻⁸ đến 4,27×10⁻⁸, tăng 7%. Máu động mạch gần như luôn được ưu tiên hơn máu tĩnh mạch để phân tích khí máu về pH, pCO₂, và pO₂ vì những lý do sau:

  • pO₂ động mạch cho biết khả năng của phổi trong việc oxy hóa, hay cân bằng, máu với không khí phế nang.
  • Máu động mạch cung cấp một chỉ số về oxy và chất dinh dưỡng sẽ được cung cấp cho các mô và tế bào.
  • Thành phần của máu động mạch là nhất quán trên toàn bộ hệ tuần hoàn.

Vì máu tĩnh mạch thông thường được lấy từ tĩnh mạch cánh tay chỉ đại diện cho chuyển hóa oxy ở cánh tay, máu tĩnh mạch đại diện cho chuyển hóa oxy và carbon dioxide của một phần lớn hơn của cơ thể đòi hỏi phải lấy máu tĩnh mạch “trung tâm” hoặc “hỗn hợp”. Máu tĩnh mạch trung tâm được lấy từ một catheter tĩnh mạch trung tâm được đặt ở ngoại vi cánh tay hoặc trực tiếp vào tĩnh mạch dưới đòn hoặc tĩnh mạch cảnh và đầu cuối nằm ở tĩnh mạch chủ trên hoặc tâm nhĩ phải. Một đường truyền tĩnh mạch trung tâm cũng cho phép truyền dịch, thuốc, hoặc dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch và theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm. Máu tĩnh mạch hỗn hợp được lấy từ một catheter động mạch phổi được đưa qua một trong các tĩnh mạch trung tâm chính (dưới đòn, cảnh trong, đùi) để cuối cùng đến động mạch phổi. Một catheter động mạch phổi lấy mẫu hỗn hợp máu tĩnh mạch trở về từ toàn bộ tuần hoàn tĩnh mạch: đầu và tay (qua tĩnh mạch chủ trên), ruột và các chi dưới (qua tĩnh mạch chủ dưới), và các tĩnh mạch vành (qua xoang vành). Một catheter động mạch phổi cũng cho phép đo trực tiếp áp lực động mạch phổi và áp lực mao mạch phổi bít, và nó có thể được sử dụng để ước tính cung lượng tim. Cả máu tĩnh mạch hỗn hợp và máu động mạch đều cần thiết khi xác định các thông số như P50 và tiêu thụ oxy (VO₂).

Diễn giải giá trị khí máu tĩnh mạch

Máu động mạch được lấy trong điều kiện yếm khí là mẫu chuẩn cho các phép đo khí máu để diễn giải tình trạng kiềm-toan và oxy hóa. Vì chọc động mạch là thủ thuật xâm lấn, đau và đòi hỏi kỹ năng đặc biệt, khí máu tĩnh mạch thường được sử dụng để diễn giải tình trạng kiềm-toan từ kết quả pH và pCO₂. Như đã mô tả ở nơi khác, máu tĩnh mạch có thể được lấy dưới dạng máu ngoại vi từ một lần chọc tĩnh mạch thông thường, hoặc dưới dạng máu tĩnh mạch trung tâm hoặc hỗn hợp từ một catheter tĩnh mạch trung tâm hoặc catheter động mạch phổi hiện có.

Các giá trị khí máu trên máu động mạch đã được xác nhận bởi nhiều nghiên cứu hơn, và các bác sĩ lâm sàng quen thuộc hơn với các khoảng tham chiếu trên máu động mạch. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều sự quan tâm đến việc sử dụng kết quả khí máu tĩnh mạch, đặc biệt là để diễn giải kiềm-toan. Sự quan tâm đến xét nghiệm khí máu tĩnh mạch đến từ cả những khó khăn trong việc lấy máu động mạch đã đề cập trước đó và sự sẵn có của phương pháp đo oxy xung không xâm lấn đáng tin cậy để đánh giá tình trạng oxy hóa động mạch. Vì nhiều lý do, kết quả pO₂ trên máu tĩnh mạch vừa không chính xác vừa không có giá trị lâm sàng vì oxy đã được các mô chiết xuất từ máu động mạch. Một nhược điểm chung của máu tĩnh mạch là thành phần của nó hơi khác nhau tùy thuộc vào nguồn gốc.

Máu tĩnh mạch lấy bằng cách chọc tĩnh mạch ngoại vi là ít xâm lấn nhất và đại diện cho sự chuyển hóa và trao đổi khí ở cánh tay. Máu tĩnh mạch trung tâm là hỗn hợp máu tĩnh mạch từ nửa trên của cơ thể. Máu được lấy từ catheter động mạch phổi là xâm lấn nhất và là hỗn hợp máu tĩnh mạch trở về từ toàn bộ hệ tuần hoàn. Kết quả khí máu trên máu tĩnh mạch được diễn giải tốt nhất bằng cách sử dụng kết quả khí máu tĩnh mạch để ước tính các giá trị động mạch, sau đó sử dụng các giá trị động mạch ước tính này cho các quyết định lâm sàng. Vì mục đích này, sự khác biệt động mạch-tĩnh mạch là chìa khóa. Bảng 3.1 liệt kê các chênh lệch ước tính giữa máu động mạch và tĩnh mạch:

Bảng 3.1. Các hiệu chỉnh ước tính để chuyển đổi kết quả tĩnh mạch sang kết quả động mạch

Thông số Chuyển đổi tĩnh mạch ngoại vi → động mạch Chuyển đổi tĩnh mạch trung tâm → động mạch Nguồn tham khảo
pH Cộng 0,03 – 0,05 Cộng 0,02 – 0,04 đơn vị; Cộng 0,03 (3) (4,5)
pCO₂ (mmHg) Trừ 4 – 5 Trừ 3 – 8; Trừ 4,5 (3) (4,6,7)
HCO₃⁻ (mmol/L) Trừ 0,8 (5,7)
BE (mmol/L) Trừ 0,3 (5,7)
pO₂ (mmHg) Động mạch cao hơn 63 ± 59 (⚠️ không thể chuyển đổi kết quả pO₂ tĩnh mạch sang động mạch) (6)

Tóm lại, đây là một số điểm về tiện ích lâm sàng của kết quả khí máu tĩnh mạch so với kết quả động mạch:

  • pH, pCO₂, và HCO₃⁻ tĩnh mạch trung tâm có tương quan cao với các thông số tương tự trong máu động mạch. Trung bình, pH tĩnh mạch trung tâm thấp hơn pH động mạch ~0,03 đơn vị, và pCO₂ tĩnh mạch trung tâm cao hơn pCO₂ động mạch ~5 mmHg,
  • Nồng độ HCO₃⁻ gần như giống nhau trong máu tĩnh mạch trung tâm và máu động mạch.
  • Việc hiệu chỉnh các kết quả tĩnh mạch trung tâm như đã nêu ở trên sẽ càng phù hợp hơn với các giá trị trên máu động mạch. Khi được sử dụng một cách thận trọng, các kết quả pH, pCO₂, và HCO₃⁻ trên máu tĩnh mạch trung tâm là những sự thay thế chấp nhận được cho các kết quả tương tự trên máu động mạch.

Trong mọi trường hợp, không nên sử dụng kết quả pO₂ trên máu tĩnh mạch để đánh giá tình trạng oxy hóa của bệnh nhân. Đối với nhiều bệnh nhân, đo oxy xung không xâm lấn là một sự thay thế đủ chính xác cho pO₂ động mạch. Tuy nhiên, trong các tình huống nguy kịch, pO₂ trên máu động mạch là bắt buộc.

Khí máu mao mạch (sơ sinh)

Mao mạch là các mạch máu rất nhỏ (đường kính ~8 μm) nối các động mạch nhỏ nhất (tiểu động mạch) với các tĩnh mạch nhỏ nhất (tiểu tĩnh mạch). Trong các mao mạch này, có sự trao đổi khí quan trọng của oxy, carbon dioxide, các sản phẩm thải và các chất dinh dưỡng thiết yếu với các tế bào mô. Với sự trao đổi này, có các gradient từ máu động mạch đến máu tĩnh mạch: pH thấp hơn 0,02-0,03; pCO₂ cao hơn 4-5 mmHg (0,6-0,7 kPa), và pO₂ thấp hơn khoảng 60 mmHg (8 kPa).

Mặc dù chọc động mạch hoặc đặt catheter động mạch cung cấp mẫu tốt nhất, chúng là thủ thuật xâm lấn và không phải lúc nào cũng có sẵn. Lấy máu mao mạch là một phương thức lấy mẫu ít đau đớn và an toàn hơn nhiều, sử dụng một lưỡi trích hoặc thiết bị rạch da đâm sâu khoảng 1 mm, làm cho chúng phù hợp hơn nhiều cho việc lấy máu ở trẻ sơ sinh. Máu mao mạch từ gót chân được làm ấm dễ lấy hơn và ít xâm lấn hơn, nhưng còn các giá trị tham chiếu và diễn giải lâm sàng của kết quả khí máu mao mạch thì sao?

Như Higgins đã chỉ ra với những bình luận xuất sắc thường thấy của mình, “máu mao mạch” thu được bằng cách chích da là một hỗn hợp máu từ các tiểu động mạch, mao mạch và tiểu tĩnh mạch bị chọc thủng, cùng với một phần nhỏ từ dịch kẽ và dịch nội bào.

Kết quả khí máu mao mạch bị ảnh hưởng ở mức độ nào?

Cũng như các khoảng tham chiếu cho máu động mạch, các khoảng tham chiếu cho khí máu trẻ sơ sinh cũng đặt ra những thách thức thực tế vì chúng nên được thu thập trên các trẻ sơ sinh khỏe mạnh mà không có nhu cầu xét nghiệm khí máu. Như trình bày trong Bảng 3.2, Cousineau và cộng sự đã báo cáo các khoảng tham chiếu trên 118 trẻ đủ tháng khỏe mạnh trong độ tuổi từ 36 đến 60 giờ.

Bảng 3.2. Khoảng tham chiếu cho máu mao mạch trẻ sơ sinh

Thông số Trung bình Khoảng trung bình ±2 SD
pH 7,40 7,31 – 7,47
pCO₂ (mmHg) 38,7 28,5 – 48,7
pO₂ (mmHg) 45,3 33 – 61
Lactat (mmol/L) 2,6 1,4 – 4,1
Hb (g/dL) 19,3 14,5 – 23,4
Glucose (mmol/L) 3,8 2,1 – 5,3
Ca²⁺ ion hóa (mmol/L) 1,21 1,06 – 1,34

Một nghiên cứu tương đối cũ đã được thực hiện trên 158 cặp mẫu máu động mạch và mao mạch từ 41 trẻ sinh non bị bệnh trong độ tuổi từ 3 giờ đến 7 ngày. Mặc dù các giá trị thu được sẽ không phù hợp cho các khoảng tham chiếu, sự khác biệt động mạch-tĩnh mạch là hữu ích. Các phép đo pCO₂ trong máu mao mạch là những ước tính tốt về pCO₂ trong máu động mạch, và 89% giá trị pH trên các mẫu lấy từ gót chân được làm ấm có chênh lệch từ 0,05 đơn vị trở xuống.

Tuy nhiên, đối với pO₂, sự khác biệt đáng kể đã được quan sát thấy trong nhiều trường hợp, với 75% kết quả chênh lệch từ 8 mmHg trở lên, và 53% kết quả chênh lệch ít nhất 15 mmHg. Những khác biệt này luôn lớn hơn đối với các mẫu lấy từ gót chân không được làm ấm và sự khác biệt tăng lên với pO₂ động mạch cao hơn. Tuy nhiên, như trình bày trong Bảng 3.3, vì pO₂ mao mạch luôn thấp hơn pO₂ động mạch, một giá trị pO₂ mao mạch bình thường trên, ví dụ, 50 mmHg, xác nhận rằng bệnh nhân không bị thiếu oxy máu.

Bảng 3.3. Sự khác biệt (động mạch – mao mạch) giữa các giá trị khí máu ở trẻ sơ sinh

Thông số Chênh lệch trung bình (ĐM – MM) Khoảng chênh lệch (ĐM – MM)
pH 0,001 –0,06 → +0,07
pCO₂ (mmHg) 0,4 –1,4 → +0,6
pO₂ (mmHg) 16,3 +0,8 → +45

Như trình bày trong Bảng 3.4, Cao và cộng sự đã báo cáo các khoảng tham chiếu cho máu mao mạch ở 23 người lớn khỏe mạnh, được đo bằng máy phân tích EPOC.

Bảng 3.4. Khoảng tham chiếu cho máu mao mạch ở người lớn

Thông số Trung bình Khoảng trung bình ±2 SD
pH 7,41 7,35 – 7,45
pCO₂ (mmHg) 37,9 33 – 46
pO₂ (mmHg)
Lactat (mmol/L) 1,1 0,2 – 1,7
Hb (g/dL) 20,4 14,5 – 23,9
Glucose (mg/dL) 93 70 – 100
Ca²⁺ ion hóa (mmol/L) 1,17 1,10 – 1,30

Khí máu dây rốn

Tuần hoàn máu ở thai nhi và nhau thai

Trong thai kỳ, thai nhi được nối với nhau thai bằng dây rốn, một cơ quan phát triển và bám vào tử cung của mẹ. Nhau thai về cơ bản là một hệ thống hỗ trợ sự sống cho thai nhi vì nó thực hiện cả chức năng “thận” và trao đổi khí “phổi”, giúp loại bỏ các sản phẩm thải và cung cấp oxy cùng các chất dinh dưỡng thiết yếu khác cho máu thai nhi.

Có ba mạch máu trong dây rốn: Một tĩnh mạch lớn và hai động mạch nhỏ hơn quấn quanh tĩnh mạch rốn. Các động mạch rốn mang máu từ thai nhi có hàm lượng oxy thấp và CO₂ cao, chứa các sản phẩm thải từ quá trình chuyển hóa của thai nhi. Trong nhau thai, CO₂ và các sản phẩm thải khuếch tán qua nhau thai vào máu mẹ, trong khi oxy và chất dinh dưỡng khuếch tán từ máu mẹ sang máu thai nhi. Tĩnh mạch rốn sau đó mang máu đã được oxy hóa này từ nhau thai trở lại thai nhi.

Tuần hoàn thai nhi khá phức tạp. Bắt đầu với máu giàu oxy và chất dinh dưỡng trong tĩnh mạch rốn, nó chảy đến gan của em bé qua một shunt gọi là ống tĩnh mạch (ductus venosus). Mặc dù một lượng nhỏ máu chảy đến gan, phần lớn đi qua tĩnh mạch chủ dưới lớn đến tâm nhĩ phải. Một phần máu từ tâm nhĩ phải đi đến tâm thất phải, sau đó đến phổi (như trong tuần hoàn của người lớn). Tuy nhiên, vì thai nhi không có chức năng phổi, hầu hết máu của thai nhi bỏ qua phổi và chảy trực tiếp từ tâm nhĩ phải vào tâm nhĩ trái qua lỗ bầu dục (foramen ovale). Từ tâm nhĩ trái, máu chảy đến tâm thất trái, nơi nó được bơm vào động mạch chủ lên. Động mạch chủ lên ngay lập tức cung cấp máu được oxy hóa qua các động mạch cảnh đến não của thai nhi, nơi có nhu cầu oxy quan trọng nhất. Ngoài các động mạch cảnh, máu ít oxy từ động mạch phổi đi vào động mạch chủ qua ống động mạch (ductus arteriosus) và trộn với máu từ động mạch chủ để cung cấp cho các cơ quan khác. Một phần máu hỗn hợp này đi vào các động mạch rốn mang máu đến nhau thai, nhận oxy và chất dinh dưỡng, sau đó chảy trở lại thai nhi qua tĩnh mạch rốn. Tuần hoàn máu ở thai nhi được thể hiện trong Hình 3.1.

Hình 3.1Sơ đồ tuần hoàn thai nhi. Nếu chúng ta theo dõi tuần hoàn thai nhi bắt đầu từ máu giàu oxy và chất dinh dưỡng trong tĩnh mạch rốn trở về từ nhau thai, máu sẽ chảy đến gan của thai nhi qua một shunt gọi là ống tĩnh mạch. Hầu hết máu bỏ qua gan và đi qua tĩnh mạch chủ dưới lớn đến tâm nhĩ phải. Vì thai nhi không có chức năng phổi, hầu hết máu của thai nhi bỏ qua tuần hoàn phổi và chảy trực tiếp vào tâm nhĩ trái qua lỗ bầu dục. Từ tâm nhĩ trái, máu chảy đến tâm thất trái, nơi nó được bơm vào động mạch chủ lên để cung cấp máu được oxy hóa tối đa cho não của thai nhi, nơi có nhu cầu oxy quan trọng nhất. Phần máu còn lại từ động mạch chủ trộn với máu ít oxy từ động mạch phổi đi vào động mạch chủ xuống để cung cấp cho các cơ quan khác. Tuy nhiên, một phần máu từ động mạch chủ xuống đi vào các động mạch rốn mang máu đến nhau thai, nhận oxy và chất dinh dưỡng, sau đó chảy trở lại thai nhi qua tĩnh mạch rốn. Được sử dụng với sự cho phép của Chương trình Tim mạch Thai nhi tại Bệnh viện Nhi Philadelphia.

Có thể diễn giải hình 3.1 dưới dạng lược đồ như sau (người dịch):

Sinh lý kiềm-toan ở thai nhi

Chuyển hóa bình thường của thai nhi tạo ra các acid được đệm bởi HCO₃⁻ và hemoglobin để duy trì pH máu trong một phạm vi mong muốn. Hầu hết acid thường đến từ quá trình chuyển hóa oxy hóa của glucose và pyruvate trong ty thể để tạo ra CO₂, kết hợp với H₂O và giải phóng một ion hydro. CO₂ được tạo ra trong quá trình chuyển hóa bình thường được xử lý bởi thai nhi và nhau thai khỏe mạnh vì CO₂ dễ dàng khuếch tán qua nhau thai. Điều thú vị là, sự khuếch tán của CO₂ vào máu mẹ được tạo điều kiện bởi pCO₂ của mẹ thấp hơn do tình trạng tăng thông khí nhẹ trong thai kỳ. Khi thai nhi không thể loại bỏ đủ CO₂ qua nhau thai, pCO₂ tăng lên dẫn đến toan “hô hấp”. Nếu trao đổi O₂ không đủ (do nhiều nguyên nhân), sẽ dẫn đến toan chuyển hóa.

Các ion hydro chuyển hóa được tiêu thụ trong quá trình tổng hợp ATP từ ADP, và với nguồn cung cấp oxy đầy đủ, cân bằng kiềm-toan được duy trì. Tuy nhiên, khi thiếu oxy, ADP và H⁺ tích tụ, gây giảm pH. Lactat (không phải acid lactic) cũng được tạo ra một cách độc lập từ sự tích tụ của NADH, điều này ưu tiên việc chuyển đổi pyruvate thành lactat. Do đó, lactat là một dấu hiệu cho thấy không đủ oxy cho các mô, tế bào và ty thể, hoặc ty thể không có khả năng sử dụng oxy.

Ứng dụng lâm sàng của kết quả khí máu dây rốn

Thiếu oxy ở thai nhi có thể dẫn đến ngạt và toan trong quá trình phát triển của thai nhi và khi sinh, có thể gây ra bệnh não do thiếu oxy-thiếu máu cục bộ (HIE), bại não, và tổn thương các cơ quan khác ở thai nhi hoặc trẻ sơ sinh. Thiếu oxy ở thai nhi có thể do nhiều yếu tố từ mẹ, nhau thai, và/hoặc thai nhi. Mặc dù ngạt thoáng qua có thể xảy ra mà không có hậu quả bệnh lý, HIE nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến các thiếu sót thần kinh nghiêm trọng và tử vong, vì vậy thách thức là xác định mức độ nghiêm trọng của tình trạng thiếu oxy. Các phép đo khí máu, kiềm-toan, và lactat trong máu dây rốn khi sinh cung cấp bằng chứng khách quan hơn về tình trạng ngạt và suy thai so với điểm Apgar.

Trước khi sinh, máu có thể được lấy bằng cách lấy mẫu qua da từ dây rốn hoặc bằng cách lấy mẫu da đầu thai nhi. Phổ biến nhất, các mẫu để xét nghiệm khí máu được lấy từ dây rốn ngay sau khi sinh. Các giá trị khí máu này cung cấp dữ liệu quý giá để đánh giá tình trạng hô hấp và chuyển hóa của trẻ sơ sinh nhằm xác định tình trạng ngạt, suy hô hấp, hoặc các tình trạng suy thai khác. Mặc dù máu từ động mạch rốn chứa máu chảy từ thai nhi đến nhau thai và đại diện chính xác hơn cho tình trạng của trẻ sơ sinh, các nghiên cứu gần đây hơn kết luận rằng việc lấy cả máu động mạch và tĩnh mạch rốn cung cấp thông tin hữu ích về mặt lâm sàng về cơ chế bệnh sinh của toan. Thực tế, một số quốc gia hiện nay yêu cầu xét nghiệm khí máu dây rốn sau tất cả các cuộc sinh.

Sự khác biệt về kết quả pH và pCO₂ giữa máu động mạch và tĩnh mạch dây rốn (chênh lệch A-V) rất hữu ích để xác định suy thai. Các hướng dẫn diễn giải cho chênh lệch A-V như sau:

  • Sự khác biệt lớn giữa kết quả máu động mạch và tĩnh mạch rốn có thể cho thấy dây rốn bị chèn ép.
  • Sự khác biệt nhỏ có thể do suy giảm tưới máu từ mẹ đến nhau thai hoặc gián đoạn kết nối mẹ-nhau thai gây ra trao đổi khí kém hoặc không có ở nhau thai.
  • Sự khác biệt nhỏ có thể do lấy mẫu “động mạch và tĩnh mạch” từ cùng một mạch máu rốn, rất có thể là tĩnh mạch rốn, có thành dễ bị chọc thủng hơn các động mạch rốn.
  • Chênh lệch pCO₂ giữa máu động mạch và tĩnh mạch dây rốn >25 mmHg xác định các tình trạng như HIE, co giật, rối loạn chức năng tim và thận trong giai đoạn sơ sinh.

Ngạt thai nhi thường dẫn đến toan hô hấp và chuyển hóa hỗn hợp. Khi thai nhi không thể loại bỏ đủ CO₂ qua nhau thai, pCO₂ tăng lên dẫn đến toan “hô hấp”. Nếu trao đổi O₂ và/hoặc cung cấp cho các mô của thai nhi không đủ (do nhiều nguyên nhân), toan chuyển hóa sẽ phát triển với sự giảm pH hơn nữa. Một số kết quả nguy kịch đối với máu dây rốn như sau:

  1. pH dưới 7,0 trong máu động mạch dây rốn.
  2. Khi pH động mạch rốn <7,0, độ lớn của chênh lệch pCO₂ tương quan với nguy cơ phát triển thiếu oxy máu.
  3. Chênh lệch pCO₂ giữa máu động mạch và tĩnh mạch dây rốn >25 mmHg.
  4. Thiếu hụt kiềm (Base Deficit) ≥12 mmol/L.
  5. Lactat động mạch >6,7 mmol/L.
  6. Sự liên quan của kết quả pO₂ trên máu dây rốn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, như một chỉ báo về sự nhiễu, một báo cáo cho biết rằng pO₂ động mạch dây rốn >38 mmHg gợi ý có bọt khí trong máu được lấy.

Ứng dụng lâm sàng của kết quả lactat máu dây rốn

Mặc dù lactat và thiếu hụt kiềm (BD) có liên quan, lactat được đo trực tiếp trong khi BD được tính toán từ nhiều phương trình được đề xuất sử dụng pH và pCO₂. Do đó, lactat dường như là một chỉ số đáng tin cậy hơn về kết cục so với các tính toán pH và BD. Vẫn chưa có sự đồng thuận về một mức giới hạn nguy kịch cho lactat máu động mạch dây rốn trong việc dự đoán toan hoặc tăng nguy cơ kết cục sơ sinh xấu. Một báo cáo đề nghị rằng ngưỡng cắt 8 mmol/L cho lactat động mạch dây rốn cho thấy nguy cơ cao hơn đối với ngạt trong quá trình sinh. Một phân tích tổng hợp các tài liệu về việc sử dụng lactat dây rốn cho thấy lactat động mạch rốn trên 6,0 mmol/L có độ nhạy 70% và độ đặc hiệu 93% trong việc dự đoán các kết cục sơ sinh xấu, bao gồm HIE.

Khoảng tham chiếu cho máu động mạch và tĩnh mạch dây rốn

Khoảng tham chiếu cho máu động mạch và tĩnh mạch dây rốn rất khó thu được và thường thay đổi giữa các nghiên cứu, vì vậy các giá trị từ nhiều nguồn được trình bày trong Bảng 3.5. Nhớ rằng động mạch rốn mang máu ít oxy và ít dinh dưỡng hơn đến nhau thai và tĩnh mạch rốn mang máu có hàm lượng oxy và dinh dưỡng cao hơn từ nhau thai trở lại thai nhi.

Bảng 3.5. Khoảng tham chiếu cho máu động mạch và tĩnh mạch dây rốn

Chất phân tích Khoảng tham chiếu máu động mạch rốn Khoảng tham chiếu máu tĩnh mạch rốn Nguồn tham khảo
pH 7,14 – 7,42; 7,12 – 7,35; 7,08 – 7,40 7,22 – 7,44; 7,23 – 7,45; 7,19 – 7,47 (24) (20) (25)
pCO₂ (mmHg) 34 – 78; 42 – 74; 30 – 75 30 – 63; 29 – 53; 22 – 53 (24) (20) (25)
pO₂ (mmHg) 3 – 40; 6,2 – 28; 5 – 31 12 – 43; 16 – 40; 10 – 39 (24) (20) (25)
Độ bão hòa O₂ (%) 2,7 – 69,0 16,4 – 83,3 (25)
Thiếu hụt kiềm (mmol/L) –1,5 → +9,3; +1,0 → +9,6 –2,6 → +8,3; +1,0 → +7,5 (20) (23)
Lactat (mmol/L) 2,0 – 6,7 (20)

Lấy mẫu máu dây rốn

Xem phần này trong Chương 10, Lấy và xử lý mẫu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ziccardi, M. R.; Khalid, N. Pulmonary Artery Catheterization. NCBI Bookshelf. www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK482170.
  2. Higgins, C. Central Venous Blood Gas Analysis, July 2011. www.acutecaretesting.org.
  3. Theodore, A. C.; Manaker, S.; Finlay G. Venous Blood Gases and Other Alternatives to Arterial Blood Gases. From www.uptodate.com. Updated 9 July 2020.
  4. Malinoski, D.; Todd, S.; Slone, S.; et al. Correlation of Central Venous and Arterial Blood Gas Measurements in Mechanically Ventilated Trauma Patients. Arch. Surg. 2005, 140, 1122-1125.
  5. Middleton, P.; Kelly, A.-M.; Brown, J.; et al. Agreement between Arterial and Central Venous Values for Bicarbonate Base Excess and Lactate. Emerg. Med. J. 2006, 23, 622-624.
  6. Toftegaard, M.; Rees, S.; Andreassen, S. Correlation Between Acid-Base Parameters Measured in Arterial Blood and Venous Blood Sampled Peripherally form Vena Cavae Superior and from the Pulmonary Artery. Eur. J. Emerg. Med. 2008, 15, 86-91.
  7. Tregor, R.; Pirouz, S.; Kamangar, N.; Corry, C. Agreement between Central Venous and Arterial Blood Gas Measurements in the Intensive Care Unit. Clin. J. Am. Soc. Nephrol. 2010, 5, 390-394.
  8. Higgins, C. Capillary-Blood Gases: To Arterialize or Not, November 2008; pp 42-47. www.mlo-online.com.
  9. Cousineau, J.; Anctil, S.; Carceller, A.; Gonthier, M.; Delvin, E. E. Neonatal Capillary Blood Gas Reference Values. Clin. Biochem. 2005, 38, 905-907.
  10. Cousineau, J. Neonate Capillary Blood Gas Reference Values, January 2006. www.acutecaretesting.org.
  11. McLain, B. I.; Evans, J.; Dear, P. R. F. Comparison of Capillary and Arterial Blood Gas Measurement in Neonates. Arch. Dis. Child. 1988, 63, 743-747.
  12. Cao, J.; Edwards, R.; Chairez, J.; Devaraj, S. Validation of Capillary Blood Analysis and Capillary Testing Mode on the Epoc Point of Care system. Pract. Lab. Med. 2017, 9, 24-27.
  13. https://www.chop.edu/conditions-diseases/blood-circulation-fetus-and-newborn.
  14. www.uptodate.com/contents/umbilical-cord-blood-acid-base-analysis-at-delivery.
  15. Higgins, C. Umbilical-Cord Blood Gas Analysis; Acutecaretesting.org, October 2014.
  16. Gjerris, A. C.; Staer-Jensen, J.; Jorgensen, J. S.; Bergholt, T.; Nickelsen, C. Umbilical Cord Blood Lactate: A Valuable Tool in the Assessment of Fetal Metabolic Acidosis. Eur. J. Obstet. Gynecol. Reprod. Biol. 2008, 139, 16-20.
  17. Jorgenson, J. S. Umbilical-Cord Blood Gas Analysis in Obstetric Practice; Webinar, 2015.
  18. Belai, Y.; Goodwin, T. M.; Durand, M.; Greenspoon, J. S.; Paur, R. H.; Walther, F. J. Umbilical Arteriovenous pO₂ and pCO₂ Differences and Neonatal Morbidity in Term Infants with Severe Acidosis. Am. J. Obstet. Gynecol. 1998, 178, 13-19.
  19. ACOG Committee Opinion # 348. Umbilical Cord Blood Gas and Acid-Base Balance. Obstet. Anesth. Digest March 2007, 27 (1), 6.
  20. White, C. R. H.; Doherty, D. A.; Henderson, J. J.; Kohan, R.; Newnham, J. P.; Pennell, C. Е. Benefits of Introducing Universal Cord Blood Gas and Lactate Analysis into an Obstetric Unit. Aust. N. Z. J. Obstet. Gynaecol. 2010, 50, 318-328.
  21. Saneh, H.; Mendez, M. D.; Srinivasan, V. N. Cord Blood Gas; NCBI Bookshelf, April 20, 2020. www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK545290.
  22. Wiberg, N.; Kallen, K.; Herbst, A.; Olofsson, P. Relation between Umbilical Cord Blood pH, Base Deficit, Lactate, 5-minute Apgar Score and Development of Hypoxic Ischemic Encephalopathy. Acta Obstet Gynecol. Scand. 2010, 89, 1263-1269.
  23. Allanson, E. R.; Waqar, T.; White, C. R. H.; Tuncalp, O.; Dickinson, J. E. Umbilical Lactate as a Measure of Acidosis and Predictor of Neonatal Risk: A Systematic Review. Br. J. Obstet. Gynaecol. 2016; https://doi.org/10.1111/1471-0528.14306. www.bjog.org.
  24. Fouse, B. Reference Range Evaluation for Cord Blood Gas Parameters, June 2002. www.bloodgas.org.
  25. Arikan, G. M.; Scholz, H. S.; Petru, E.; Haeusler, M. C. H.; Haas, J.; Weiss, P. A. M. Cord Blood Oxygen Saturation in Vigorous Infants at Birth What is Normal? Br. J. Obstet. Gynaecol. 2000, 107, 987-994.

BẢNG CHÚ GIẢI THUẬT NGỮ Y HỌC ANH VIỆT

STT Thuật ngữ tiếng Anh Phiên âm IPA Nghĩa Tiếng Việt
1 Arterial blood /ɑːrˈtɪəriəl blʌd/ Máu động mạch
2 Venous blood /ˈviːnəs blʌd/ Máu tĩnh mạch
3 Alveolar air /ælˈviːələr ɛər/ Không khí phế nang
4 Central venous blood /ˈsɛntrəl ˈviːnəs blʌd/ Máu tĩnh mạch trung tâm
5 Mixed venous blood /mɪkst ˈviːnəs blʌd/ Máu tĩnh mạch hỗn hợp
6 Central venous catheter /ˈsɛntrəl ˈviːnəs ˈkæθɪtər/ Catheter tĩnh mạch trung tâm
7 Subclavian vein /səbˈkleɪviən veɪn/ Tĩnh mạch dưới đòn
8 Jugular vein /ˈdʒʌɡjələr veɪn/ Tĩnh mạch cảnh
9 Superior vena cava /suːˈpɪəriər ˈviːnə ˈkeɪvə/ Tĩnh mạch chủ trên
10 Right atrium /raɪt ˈeɪtriəm/ Tâm nhĩ phải
11 Parenteral nutrition /pəˈrɛntərəl nuːˈtrɪʃən/ Dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch
12 Pulmonary artery catheter /ˈpʊlməˌnɛri ˈɑːrtəri ˈkæθɪtər/ Catheter động mạch phổi
13 Inferior vena cava /ɪnˈfɪəriər ˈviːnə ˈkeɪvə/ Tĩnh mạch chủ dưới
14 Coronary sinus /ˈkɔːrəˌnɛri ˈsaɪnəs/ Xoang vành
15 Pulmonary capillary wedge pressure /ˈpʊlməˌnɛri ˈkæpəˌlɛri wɛdʒ ˈprɛʃər/ Áp lực mao mạch phổi bít
16 Cardiac output /ˈkɑːrdiˌæk ˈaʊtˌpʊt/ Cung lượng tim
17 Oxygen consumption (VO₂) /ˈɒksɪdʒən kənˈsʌmpʃən/ Tiêu thụ oxy
18 Venipuncture /ˈvɛnəˌpʌŋktʃər/ Chọc tĩnh mạch
19 Pulse oximetry /pʌls ɒkˈsɪmɪtri/ Đo oxy xung
20 Capillary blood /ˈkæpəˌlɛri blʌd/ Máu mao mạch
21 Arterioles /ɑːrˈtɪərioʊlz/ Tiểu động mạch
22 Venules /ˈvɛnjuːlz/ Tiểu tĩnh mạch
23 Lancet /ˈlænsɪt/ Lưỡi trích
24 Heel stick /hiːl stɪk/ Lấy máu gót chân
25 Interstitial fluid /ˌɪntərˈstɪʃəl ˈfluːɪd/ Dịch kẽ
26 Intracellular fluid /ˌɪntrəˈsɛljələr ˈfluːɪd/ Dịch nội bào
27 Preterm babies /ˈpriːtɜːrm ˈbeɪbiz/ Trẻ sinh non
28 Hypoxemic /ˌhaɪpɒkˈsiːmɪk/ (Thuộc) thiếu oxy máu
29 Umbilical cord blood /ʌmˈbɪlɪkəl kɔːrd blʌd/ Máu dây rốn
30 Fetus /ˈfiːtəs/ Thai nhi
31 Placenta /pləˈsɛntə/ Nhau thai
32 Uterus /ˈjuːtərəs/ Tử cung
33 Umbilical arteries /ʌmˈbɪlɪkəl ˈɑːrtəriz/ Động mạch rốn
34 Umbilical vein /ʌmˈbɪlɪkəl veɪn/ Tĩnh mạch rốn
35 Fetal circulation /ˈfiːtəl ˌsɜːrkjəˈleɪʃən/ Tuần hoàn thai nhi
36 Ductus venosus /ˈdʌktəs vɪˈnoʊsəs/ Ống tĩnh mạch
37 Foramen ovale /fəˈreɪmən oʊˈvæli/ Lỗ bầu dục
38 Ductus arteriosus /ˈdʌktəs ɑːrˌtɪəriˈoʊsəs/ Ống động mạch
39 Ascending aorta /əˈsɛndɪŋ eɪˈɔːrtə/ Động mạch chủ lên
40 Carotid arteries /kəˈrɒtɪd ˈɑːrtəriz/ Động mạch cảnh
41 Oxidative metabolism /ˈɒksɪˌdeɪtɪv məˈtæbəˌlɪzəm/ Chuyển hóa oxy hóa
42 Pyruvate /paɪˈruːveɪt/ Pyruvate
43 Hypoxia /haɪˈpɒksiə/ Thiếu oxy
44 Asphyxia /æsˈfɪksiə/ Ngạt
45 Hypoxemic-ischemic encephalopathy (HIE) /haɪˌpɒkˈsiːmɪk ɪˈskiːmɪk ɛnˌsɛfəˈlɒpəθi/ Bệnh não do thiếu oxy-thiếu máu cục bộ
46 Cerebral palsy /ˈsɛrəbrəl ˈpɔːlzi/ Bại não
47 Apgar scores /ˈæpɡɑːr skɔːrz/ Điểm Apgar
48 Percutaneous sampling /ˌpɜːrkjuːˈteɪniəs ˈsæmplɪŋ/ Lấy mẫu qua da
49 Fetal scalp sampling /ˈfiːtəl skælp ˈsæmplɪŋ/ Lấy mẫu da đầu thai nhi
50 Pathogenesis /ˌpæθəˈdʒɛnəsɪs/ Cơ chế bệnh sinh
51 Obstructed cord /əbˈstrʌktɪd kɔːrd/ Dây rốn bị chèn ép
52 Maternal perfusion /məˈtɜːrnəl pərˈfjuːʒən/ Tưới máu của mẹ
53 Seizures /ˈsiːʒərz/ Co giật
54 Base Deficit (BD) /beɪs ˈdɛfɪsɪt/ Thiếu hụt kiềm
55 Intrapartum asphyxia /ˌɪntrəˈpɑːrtəm æsˈfɪksiə/ Ngạt trong khi sinh
56 Meta-analysis /ˈmɛtə əˈnælɪsɪs/ Phân tích tổng hợp
57 Vigorous infants /ˈvɪɡərəs ˈɪnfənts/ Trẻ sơ sinh khỏe mạnh
Exit mobile version