Đại cương
Béo phì ở trẻ em có ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng vì nó liên quan đến sức khoẻ, bệnh tật, tử vong của trẻ em tuổi trưởng thành.
Béo phì và thừa cân đang tăng lên đến mức báo động tại khắp các miền trên thế giới, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Trước đây béo phì rất hiếm gặp, nhưng ngày nay khá phổ biến nhất là các nước phát triển như Mỹ (15% trẻ 12-19 tuổi bị béo phì).
Việt Nam (2007) tại TP Hồ Chí Minh thừa cân là 20,5% và béo phì là
16,3%, và tỷ lệ giữa thừa cân/béo phì tương đương giữa các vùng có kinh tế khá 38,9% và kinh tế nghèo 35,9%. Tỷ lệ trẻ có thừa cân trong gia đình có cả hai cha mẹ bị thừa cân là 1,87 lần và 2,59 lần ở trường hợp cả hai cha mẹ bị béo phì so với trẻ bị béo phì trong gia đình bình thường.
Việt Nam hiện nay phải đối đầu kép đó là tình trạng suy dinh dưỡng vẫn còn cao và tỷ lệ béo phì gia tăng ở các vùng đô thị hóa.
Định nghĩa:
WHO định nghĩa thừa cân béo phì như sau:
Thừa cân: là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so với chiều cao.
Béo phì: là tình trạng bệnh lý đặc trưng bởi sựtích luỹ mỡ thái quá và không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.
Đánh giá béo phì không chỉ tính đến cân nặng mà còn quan tâm đến tỷ lệ mỡ của cơ thể.
Béo phì được coi là bệnh vì nó chính là yếu tố nguy cơ mắc bệnh mạn tính không lây và là yếu tố nguy cơ tử vong.
Phương pháp đánh giá thừa cân béo phì
Dựa vào chỉ số cân nặng, chiều cao, độ dày lớp mỡ dưới da, sựphân bố mỡ trong cơ thể.
Cân nặng/tuổi > 3SD (trẻ
Chỉ số cân nặng/chiều cao >2Z-score hoặc 2SD.
Đánh giá béo phì có thể dựa vào cân nặng/chiều cao (CN/CC) tăng ít nhất trên 20% so với bình thường hoặc % mỡ của cơ thể > 25% ở trẻ nam và 32% ở trẻ nữ (tỷ lệ mỡ chỉ đo ở trẻ >10 tuổi).
BMI: chỉ số khối cơ thể BMI được tính theo giới và tuổi của trẻ. Chỉ số
BMI ≥ 85 percentile là thừa cân. Béo phì xác định khi BMI theo tuổi và giới của trẻ ≥95percentile, hoặc BMI ≥ 85 percentile cộng thêm bề dày lớp mỡ dưới da cơ tam đầu và vùng dưới xương bả vai ≥90percentile.
BMI = cân nặng (kg)/chiều cao2 (m2)
Độ dày lớp mỡ dưới da: dùng để ước tính lượng mỡ chung của cơ thể cũng như đặc điểm của sựphân bố mỡ trong cơ thể. Lớp mỡ dưới da của cơ tam đầu dùng để đánh giá mỡ ngoại vi. Lớp mỡ dưới da của vị trí dưới vai để đánh giá lượng mỡ của phần thân.
Cơ chế bệnh sinh của béo phì
Ở vùng dưới đồi có 2 trung tâm:
VLH: Ventrolateral nuclear of the hypothalamus là nhân bụng bên của vùng dưới đồi kích thích ăn
VMH: Ventromethial nuclear of the hypothalamus là nhân bụng giữa của vùng dưới đồi hạn chế ăn.
Khi nồng độ glucose, Insulin trong huyết thanh tăng, sựcăng của dạ dày ruột sau bữa ăn, cùng với bài tiết adrenalin sẽ kích thích trung tâm no của vùng dưới đồi, kích thích lên vỏ não dẫn đến ức chế việc ăn.
Ngoài ra các yếu tố như xã hội, văn hoá, môi trường, dân tộc cũng ảnh hưởng đến vỏ não, điều khiển việc ăn uống. Thường trẻ béo phì đều háu ăn và ăn nhiều hơn trẻ bình thường.
Phân loại béo phì
Có nhiều cách phân loại
Phân loại theo cơ chế bệnh sinh:
Béo phì đơn thuần là loại béo phì không có nguyên nhân rõ ràng và béo phì bệnh lý (có các vấn đề bệnh lý rõ rệt).
Phân loại theo tuổi xuất hiện:
Béo phì xuất hiện trước 5 tuổi
Béo phì xuất hiện sau 5 tuổi
Hoặc
Béo phì xuất hiện ở tuổi nhỏ
Béo phì xuất hiện ở người lớn
Phân loại theo hình thái mô mỡ, vị trí, giải phẫu:
Béo bụng: hay còn gọi phì hình quả táo, là nguy cơ bệnh tim mạch, tiểu đường, cao huyết áp, rối loạn mỡ máu.
Béo thân, béo đùi: gọi là béo phì hình quả lê, loại này thường gặp ở béo bệnh lý.
Phân loại mức độ:
Trẻ
+ 2SD
+ 3SD
W/H > +4SD : béo phì độ 3 Trẻ > 9 tuổi:
85 th th : béo phì nhẹ
BMI > 95 th : béo phì trung bình và nặng
Nguyên nhân
60-80% béo phì là do nguyên nhân dinh dưỡng, bên cạnh đó có thể do các rối loạn chuyển hoá của cơ thể thông qua vai trò của hệ thần kinh, tuyến nội tiết như tuyến yên, thượng thận, giáp trạng và tuỵ nhưng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Nguyên nhân của béo phì đơn thuần:
Béo phì đơn thuần hay còn gọi béo ngoại sinh, rất hay gặp trong lâm sàng và ở cả cộng đồng. Nguyên nhân của béo phì đơn thuần rất phức tạp, là hậu quả của nhiều yếu tố kết hợp (sựtương tác giữa di truyền và môi trường).
Nguyên nhân chủ yếu là do thay đổi cân bằng năng lượng: năng lượng ăn vào > năng lượng tiêu hao dẫn đến hậu quả tích luỹ mỡ.
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của béo phì được chia như sau:
+ Thói quen ăn uống
Những thức ăn có quá nhiều chất béo như đồ ăn nhanh, nước uống công nghiệp, thức ăn này nhiều calo hơn lượng cần thiết sử dụng để tăng trưởng. Thay đổi hành vi ăn uống của trẻ như ăn kể cả khi không đói, ăn khi đang xem TV hoặc làm việc khác.
+ Gen di truyền: Rối loạn nội tiết và gen chỉ chiếm số lượng nhỏ trong trẻ em bị béo phì. Béo phì cũng có tính chất di truyền rõ rệt trong gia đình.
+ Tình trạng kinh tế xã hội: ở gia đình có thu nhập thấp, cha mẹ thất nghiệp thấy có năng lượng đưa vào cơ thể nhiều hơn so với mức năng lượng tiêu hao cho các hoạt động và vận động.
+ Giảm hoạt động thể lực: ít lao động kể cả lao động chân tay và trí óc.
+ Thuốc: Béo phì còn có thể gây ra do tác dụng của thuốc hay bệnh nội tiết, nhưng tỷ lệ này rất rất thấp, đó là do sựmất cân bằng hocmon trong cơ thể, gây ra thay đổi bất thường quá trình dựtrữ mỡ và chất béo trong cơ thể.
+ Điều hoà nhu cầu năng lượng (NL): cân nặng ổn định là do có sựđiều hoà giữa NL ăn vào và NL tiêu hao nhờ các cơ chế:
Điều hoà thần kinh: trung tâm cân bằng NL ở vùng dưới đồi kiểm soát việc ăn uống, cơ chế dạ dày rỗng co bóp gây cảm giác đói. Mô mỡ bài tiết ra leptin, các thụ cảm của leptin ở vùng dưới đồi. Nồng độ của leptin được điều hoà bởi đói, ăn, nồng độ Insulin, glucocorticoid và các yếu tố khác. Các nghiên cứu đều thấy rằng hầu hết người béo kháng với leptin hơn là giảm leptin.
Điều hoà thể dịch: lượng Insulin tăng hoặc Glucose máu giảm gây cảm giác đói.
Điều hoà nhiệt: nhiệt độ môi trường liên quan đến cảm giác thèm ăn và do đó ảnh hưởng đến lượng thức ăn ăn vào.
+ Ngủ ít: là nguy cơ cao ở trẻ thừa cân
+ SDD thể thấp còi: trẻ khi cân nặng lúc sinh và lúc 1 tuổi thấp thì về sau mỡ có khuynh hướng tập trung ở bụng. Popkin 1996 thấy có mối liên quan giữa tình trạng thấp còi và thừa cân ở trẻ 3-6 tuổi, 7-9 tuổi tại 4 quốc gia.
Béo phì do nguyên nhân nội tiết:
Nội tiết | Các đầu mối chẩn đoán |
Suy giáp
Cường năng tuyến thượng thận Cường insulin nguyên phát Giả nhược cận giáp Bệnh lý vùng dưới đồi mắc phải |
Tăng TSH, tăng T4
Test ức chế dexamethasone bất thường, tăng cortisol tựdo trong nước tiểu 24 giờ Tăng insulin huyết thanh, tăng C-peptid Hạ can xi máu, tăng phospate máu, tăng PTH U vùng dưới đồi, nhiễm trùng, chấn thương, sang thương mạch máu |
Di truyền | Các đặc trưng kèm theo |
Prader-Wili
Laurence-Moon/Barddet- Biedl Altrom Borjeson-EorssmanLehmann – Cohen Turner‟s
|
Béo phì, thèm ăn vô độ, chậm phát triển tâm thần, nhược năng tuyến sinh dục, lé. – Béo phì, chậm phát triển tâm thần, bệnh lý võng mạc sắc tố, nhược năng tuyến sinh dục, liệt 2 chi dưới co thắt.
Béo phì, viêm võng mạc sắc tố, điếc, tiểu đường. Béo phì, chậm phát triển tâm thần, nhược năng sinh dục, giảm chuyển hóa, động kinh. Béo phì kiểu bụng, chậm phát triển tâm thần, nhược cơ, nhược năng sinh dục. Lùn, không phân biệt giới tính, các bất thường tim, cổ có màng (webbed neck), béo phì, kiểu gen 45,X |
Loạn dưỡng mô mỡ
(lipodystrophy) có tính gia đình Beckwith-Wiedemann Soto‟s Weaver Ruvalca |
Phì đại cơ, dạng to đầu chi, gan to, đề kháng insulin, tăng triglyceride máu, chậm phát triển tâm thần.
Khổng lồ, lồi mắt, lưỡi to, các tạng to. – Não khổng lồ, tăng trưởng quá phát, nhược cơ, chậm phát triển tâm thần vận động. – Hội chứng tăng trưởng quá phát ở trẻ nhỏ, xương trưởng thành nhanh, vẻ mặt bất thường – Chậm phát triển tâm thần, đầu nhỏ, bất thườ ng khung xương, nhược năng sinh dục, cận thị. |
Hậu quả của béo phì và thừa cân ở trẻ em
Hầu hết các hậu quả lâu dài của trẻ béo phì là dai dẳng cho đến khi thanh niên (70% béo phì trẻ em tồn tại đến người lớn), là loại béo phì khó điều trị, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe. Béo phì ở trẻ em nếu không phòng ngừa, điều trị sớm sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội và y tế.
Người lớn béo phì có tiền sử từ nhỏ, có nguy cơ mắc các bệnh (Cao huyết áp, tai biến mạch não, tăng cholesterol dẫn tới nhồi máu cơ tim, tiểu đường, mắc các bệnh xương khớp. Có nguy cơ cao mắc một số bệnh ung thư, giảm tuổi thọ ở người lớn.
Tỷ lệ mắc bệnh tăng, Ảnh hưởng tâm lý xã hội.
Biến chứng gan và dạ dày
Các biến chứng liên quan đến giải phẫu: Bệnh Blount (một xương dị dạng do phát triển quá mạnh xương chày); dễ bị tổn thương do va chạm như bong gân đầu gối, mắt cá chân.
Biến chứng khác: Ngừng thở khi ngủ, bệnh não là bệnh hiếm gặp liên quan đến tăng áp lực nội sọ não đòi hỏi đến bác sĩ ngay.
Điều trị béo phì ở trẻ em
Mục tiêu điều trị:
Để cho trẻ có một cân nặng và sức khoẻ lý tưởng bằng cách là làm chậm tăng cân hoặc ngừng tăng cân.
Kiểm soát và duy trì cân nặng lý tưởng theo chiều cao
Bảo đảm trẻ tăng trưởng tốt theo lứa tuổi
Giảm nguy cơ biến chứng do béo phì
Nguyên tắc:
Trẻ em là cơ thể đang phát triển vì vậy điều trị béo phì ở trẻ em không đặt ra vấn đề giảm cân, mà là giảm tốc tăng cân hay tránh tăng cân thêm để đảm bảo sựphát triển chiều cao của trẻ. Cho phép trẻ vẫn tiếp tục tăng trưởng từ từ cùng với cân nặng qua thời gian, điều này có thể kéo dài 1 đến 2 năm hoặc hơn phụ thuộc vào tuổi, cân nặng và cách phát triển của trẻ
Do đó điều trị béo phì trẻ em gồm 3 vấn đề chính là:
Điều chỉnh chế độ ăn: nhằm giảm năng lượng ăn vào.
Tăng cường hoạt động thể lực: nhằm tăng năng lượng tiêu hao.
Đảm bảo cung cấp đủ vitamin và khoáng chất theo lứa tuổi
Các biện pháp cụ thể:
*.Xây dựng chế độ ăn hợp lý:
Những điều nên làm:
Xây dựng thực đơn khẩu phần ăn cân đối, hợp lý. Phối hợp nhiều loại thức ăn trong một bữa, khẩu phần ăn vẫn phải đủ các chất dinh dưỡng.
Nên uống sữa không đường, trẻ lớn nên uống sữa gầy.
Hạn chế các món quay, xào. Hạn chế mỡ không quá 25-30% tổng năng lượng.
Nên ăn đều đặn các bữa, tránh bỏ bữa.
Không đẻ trẻ quá đói (vì nếu trẻ bị đói, trẻ bị đói trẻ sẽ ăn nhiều hơn vào các bữa sau làm mỡ tích lũy nhanh hơn).
Nên ăn nhiều vào buổi sáng, giảm ăn về buổi chiều và tối.
Nên ăn nhiều rau xanh, hoa quả ít ngọt.
Giảm bớt gạo thay bằng khoai, ngô là những thức ăn cơ bản giàu chất xơ. Chọn ngũ cốc hoặc bánh mỳ có ít hoặc không có chất béo.
Nhai kỹ và cho trẻ ăn chậm, giúp trẻ cảm nhận được no và sẽ ngừng ăn khi no. Nếu ăn quá nhanh thì sẽ ăn nhiều hơn nhu cầu cần thiết.
Gia đình nên ăn cùng nhau bất cứ lúc nào có thể. Tạo ra thời gian trong bữa ăn là thời gian thoái mái, trao đổi và chia sẻ những việc đã xảy ra trong ngày.
Chế độ ăn của trẻ phải cân bằng về năng lượng (calo) để giúp cho sựtăng trưởng và phát triển để có cơ thể khỏe mạnh, ăn đa dạng thức ăn. Không ăn thực phẩm ăn nhanh, nếu có thể không quá 1 tuần/lần. Nên kiểm soát cả những bữa ăn bên ngoài ( ví dụ như ăn ở trường học…) để đảm bảo cân bằng
*.Những điều không nên làm:
Hạn chế các loại đường, kẹo,sữa đặc có đường .
Tránh cho trẻ nhai kẹo cao su làm cho trẻ lúc nào cũng muốn nhai.
Không nên ăn vào lúc trước khi đi ngủ.
*.Tăng năng lượng tiêu hao cho hoạt động thể lực: Mục tiêu là trẻ tham gia các hoạt động vừa ít nhất trong 60 phút/ngày, ít nhất 3 ngày/tuần.
Nghiêm cấm trẻ ngồi lâu với các hoạt động tĩnh.
Uống đủ nước để bù lại lượng nước trẻ mất qua mồ hôi trong quá trình luyện tập.
Phòng bệnh
Trẻ nhỏ được bú mẹ đầy đủ, ăn bổ sung hợp lý sẽ ngăn ngừa được béo phì. NCBSM giảm được 5% nguy cơ béo phì cho mỗi tháng em bé được nuôi thêm bằng sữa mẹ.
Giáo dục cho trẻ nếp sống lành mạnh, ăn uống hợp lý.
Hoạt động thể thao đều đặn hàng ngày.
Xem ti vi hay các hoạt động tĩnh không nên quá 7h/ngày. Tránhvừa ăn vừa xem TV
Thường xuyên theo dõi cân nặng và chiều cao của trẻ để có thể can thiệp kịp thời tránh dẫn đến béo phì.
Tài liệu tham khảo
Committee on Nutrition, American Academy of Pediatrics (2003). Policy statement: Prevention of pediatric overweight and obesity. Pediatrics, 112(2): 424–430.
Dieu HT, Dibley MJ, Sibbritt D, Hanh TT. “Prevalence of overweight and obesity in preschool children and associated socio-demographic factors in Ho Chi Minh City, Vietnam”. Int J Pediatr Obes. 2007;2(1):40-50.
Winlliam H, Dietz MD, Thomas N, Robinson MD( 2005). “Overweight children and Adolescents”. N Eng J md 352-20100-9.
Phác đồ điều trị nhi khoa, Bệnh viện Nhi Đồng 1, Nhà xuất bản Y học (2013).
BÌNH LUẬN