SÁCH DỊCH “Y HỌC CHU PHẪU: QUẢN LÝ HƯỚNG ĐẾN KẾT QUẢ, ẤN BẢN THỨ 2”
Được dịch và chuyển thể sang tiếng Việt từ sách gốc “Perioperative Medicine: Managing for Outcome, 2nd Edition”
Dịch và chú giải: Ths.Bs. Lê Đình Sáng – Hiệu đính: Ts.Bs.Lê Nhật Huy
Chương 36. Đa Chấn thương
Multisystem Trauma – Timothy J. Donahue and Lillian S. Kao
Perioperative Medicine, 36, 543-551
Chăm sóc người bệnh bị đa chấn thương là một thách thức. Mặc dù có những dạng tổn thương được xác định rõ ràng, nhưng mỗi người bệnh đều có những đặc điểm riêng về sức khỏe trước khi bị chấn thương, phức hợp tổn thương và quản lý sau chấn thương. Do nhiều tổn thương được xử trí không cần phẫu thuật, nhiều người bệnh không có giai đoạn hậu phẫu. Tuy nhiên, một số người bệnh bị chấn thương cần nhiều cuộc phẫu thuật, và ranh giới giữa chăm sóc hậu phẫu và tiền phẫu trở nên mờ nhạt. Những nguyên tắc cơ bản trong chăm sóc người bệnh bị chấn thương tương tự như đối với người bệnh hậu phẫu. Đáp ứng stress của người bệnh chấn thương phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tổn thương. Tiến trình hậu phẫu hay hậu chấn thương của người bệnh chấn thương nên được đánh giá theo mô hình này.
Đánh giá ban đầu người bệnh bị chấn thương nên tuân theo hướng dẫn của Chương trình Cấp cứu Nâng cao về Chấn thương (ATLS) của Hiệp hội Phẫu thuật viên Hoa Kỳ. Mô hình ATLS về thăm khám ban đầu, thứ phát và tam phát ưu tiên vào các nguyên tắc ABC – đường thở (airway), hô hấp (breathing) và tuần hoàn (circulation) – và đảm bảo rằng các tổn thương đe dọa tính mạng ngay lập tức được chẩn đoán và điều trị trước khi chuyển sang các tổn thương khác. Đánh giá chấn thương diễn ra nhanh chóng và toàn diện, sử dụng khám thực thể, dấu hiệu sinh tồn, X-quang và siêu âm. Hướng xử trí tiếp theo cho người bệnh – đưa vào phòng mổ, phòng can thiệp mạch, phòng chụp cắt lớp vi tính, đơn vị chăm sóc tích cực (ICU), hoặc khu điều trị chung – dựa trên những phát hiện từ thăm khám ban đầu và thứ phát.
Hồi sức
HỒI SỨC CÂN BẰNG
Trong lịch sử, hồi sức sớm cho chấn thương thường sử dụng lượng lớn dịch tinh thể, và thập kỷ vừa qua đã đón nhận một khái niệm mới trong hồi sức sớm cho chấn thương. Thay đổi trong cách tiếp cận hồi sức cho người bệnh bị chấn thương này nhấn mạnh vào hồi sức cân bằng, sử dụng tỷ lệ cao của hồng cầu, huyết tương và tiểu cầu gần giống với máu toàn phần càng sớm càng tốt trong quá trình chăm sóc người bệnh chấn thương. Máu toàn phần ngày càng được sử dụng nhiều hơn cả trong giai đoạn tiền viện và tại bệnh viện. Nghiên cứu Pragmatic Randomized Optimal Platelet and Plasma Ratios (PROPPR) đã chứng minh rằng tỷ lệ 1:1:1 của đơn vị huyết tương/Tiểu cầu/Hồng cầu không chỉ an toàn mà còn hiệu quả. Mặc dù không cải thiện tỷ lệ tử vong ở 24 giờ và 30 ngày, tỷ lệ 1:1:1 so với 1:1:2 giúp nhiều người bệnh đạt được cầm máu và giảm số ca tử vong do mất máu trong 24 giờ đầu tiên.
Hồi sức quá mức bằng dịch tinh thể làm trầm trọng thêm rối loạn đông máu do pha loãng các thành phần máu, tăng toan máu do thay đổi pH, và làm nặng thêm hạ thân nhiệt do truyền lượng lớn dung dịch lạnh. Để khắc phục điều này, hồi sức cân bằng hạn chế sử dụng dịch tinh thể trong giai đoạn hồi sức sớm ở người bệnh chấn thương nặng. Thực tế, Ủy ban Chấn thương của Hiệp hội Phẫu thuật viên Hoa Kỳ gần đây đã thay đổi cách tiếp cận ATLS, giảm truyền dịch tinh thể ban đầu từ 2 L xuống còn 1 L trước khi bổ sung các chế phẩm máu.
Một trụ cột khác của hồi sức cân bằng là khái niệm hạ huyết áp cho phép. Điều này cho phép duy trì huyết áp đủ nhưng không bình thường để bảo tồn chức năng cơ quan sống còn, đồng thời ngăn ngừa pha loãng máu thêm và phá vỡ cục máu đông đã hình thành ở người bệnh đang chảy máu. Các tài liệu còn đang tranh luận, nhưng một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy hạ huyết áp cho phép không chỉ giảm lượng máu mất và sử dụng chế phẩm máu mà còn tăng khả năng sống sót.
Nhiều trung tâm đã thiết lập các quy trình truyền máu khối, cho phép ngân hàng máu bệnh viện nhanh chóng cung cấp số lượng tiêu chuẩn các đơn vị hồng cầu, huyết tương, tiểu cầu nhóm O âm chưa hòa hợp chéo và ngày càng nhiều máu toàn phần O âm có hiệu giá thấp theo định kỳ cho đến khi kiểm soát được chảy máu. Mặc dù gây áp lực lên ngân hàng máu bệnh viện, các quy trình này dường như được biện minh bởi các nghiên cứu cho thấy giảm tỷ lệ tử vong xuống thấp tới 15%, giảm tổng lượng thành phần sử dụng và tránh lạm dụng. Các hệ thống tính điểm, như điểm Đánh giá Tiêu thụ Máu (ABC), được thiết kế để dự đoán nhu cầu truyền máu khối, có thể giúp hướng dẫn kích hoạt các quy trình như vậy. Đánh đổi bao gồm nguy cơ phản ứng truyền máu, lây truyền bệnh qua đường máu, và biến chứng nhiễm trùng và miễn dịch.
Tăng tiêu fibrin đã được công nhận là yếu tố góp phần vào rối loạn đông máu liên tục. Mặc dù thường cân bằng với huyết khối, tăng tiêu fibrin ở một số người bệnh chấn thương dẫn đến phá vỡ cục máu đông trong khi chảy máu vẫn đang diễn ra. Acid tranexamic (TXA) đã được sử dụng lâu dài để cầm máu trong phẫu thuật tự chọn. Trong thập kỷ qua, việc sử dụng TXA ngày càng được nghiên cứu ở người bệnh chấn thương. Mặc dù vẫn còn tranh cãi, có bằng chứng ủng hộ việc sử dụng sớm TXA ở người bệnh chấn thương đang chảy máu. Thử nghiệm Clinical Randomisation of an Antifibrinolytic in Significant Haemorrhage-2 (CRASH-2) cho thấy có sự giảm nhỏ nhưng đáng kể về tỷ lệ tử vong và tử vong do chảy máu với TXA. Các biến cố huyết khối không khác biệt giữa nhóm điều trị và giả dược. Sử dụng TXA muộn (>3 giờ sau chấn thương) cho thấy tăng tỷ lệ tử vong.
LỰA CHỌN DỊCH HỒI SỨC TRONG ICU
Lựa chọn dịch hồi sức sau khi kiểm soát chảy máu ở người bệnh chấn thương nặng vẫn còn gây tranh cãi. Dung dịch tinh thể rẻ hơn nhưng theo lý thuyết kém hiệu quả hơn trong việc duy trì thể tích nội mạch. Mặc dù dung dịch keo đắt hơn, chúng theo lý thuyết tồn tại lâu hơn trong không gian nội mạch so với dịch tinh thể, do đó cần truyền lượng nhỏ hơn. Các nghiên cứu không nhất quán chứng minh một loại dịch vượt trội hơn loại khác trong hồi sức ICU. Thử nghiệm ngẫu nhiên tiến cứu lớn nhất để giải quyết vấn đề này là thử nghiệm Saline versus Albumin Fluid Evaluation (SAFE), so sánh nước muối sinh lý với albumin 4% cho hồi sức ở người bệnh ICU. Thử nghiệm này không cho thấy lợi ích về tỷ lệ tử vong của albumin so với nước muối sinh lý trong một nhóm lớn người bệnh ICU sau 28 ngày. Tuy nhiên, có sự giảm tổng lượng dịch sử dụng trong nhóm albumin trong 4 ngày đầu, giảm nhịp tim và tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm, mặc dù không thay đổi huyết áp động mạch trung bình. Phân tích nhóm con hậu nghiệm cho thấy người bệnh chấn thương trong nhóm albumin có thể có kết quả tệ hơn so với nhóm hồi sức bằng nước muối sinh lý; tuy nhiên điều này không có tính kết luận vì nhóm này cũng có tỷ lệ tử vong do chấn thương sọ não cao hơn.
Mặc dù vấn đề dịch tinh thể so với dịch keo vẫn chưa được giải quyết dứt khoát, rõ ràng là quá trình hồi sức quá mức với bất kỳ loại dịch nào đều có thể dẫn đến nhiều biến chứng, cả tức thì và muộn. Do đó, lựa chọn dịch hồi sức có lẽ ít quan trọng hơn thời điểm và thể tích hồi sức.
NGƯỠNG TRUYỀN MÁU
Thiếu máu thường gặp trong giai đoạn sau chấn thương, đặc biệt ở những người bệnh chấn thương nhập ICU. Truyền các chế phẩm máu chỉ dựa trên giá trị xét nghiệm nên được tiếp cận một cách thận trọng. Khi các yếu tố khác được kiểm soát, truyền máu có mối tương quan với rối loạn chức năng cơ quan, tỷ lệ tử vong và thời gian nằm ICU. Các nghiên cứu trên người bệnh chấn thương cho thấy truyền máu là yếu tố dự báo độc lập về kết quả xấu ở người bệnh có tổn thương tạng đặc. Các thử nghiệm kiểm soát lớn ở người bệnh nặng đã gợi ý rằng thực hành truyền máu hạn chế (ví dụ: ngưỡng truyền máu khi hemoglobin 7 g/dL) tương đương hoặc ưu việt hơn về tỷ lệ tử vong so với thực hành truyền máu tự do hơn (ví dụ: ngưỡng truyền máu 10 g/dL). Một nhóm nhỏ các tài liệu gợi ý điều tương tự đúng với dân số bị chấn thương. Phân tích hậu nghiệm của thử nghiệm Transfusion Requirements in Critical Care (TRICC) xác nhận tính an toàn của thực hành truyền máu hạn chế ở người bệnh chấn thương. Cả hai quy trình đều tương tự về tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc rối loạn chức năng đa cơ quan. Một hướng dẫn quản lý thực hành sau chấn thương là an toàn và hiệu quả về chi phí. Mặc dù ngưỡng truyền máu cho người bệnh có thiếu máu cơ tim hoạt động và người bệnh có chấn thương đầu chưa được biết rõ, có khả năng hầu hết các người bệnh chấn thương khác đã kiểm soát được chảy máu sẽ không được hưởng lợi từ chiến lược truyền máu tự do. Khái niệm về ngưỡng truyền máu nên được áp dụng rất cẩn thận ở quần thể chấn thương: bất kỳ ngưỡng nào cho truyền máu đều giả định đã kiểm soát được chảy máu. Nói một cách thẳng thắn hơn, ngưỡng truyền máu không áp dụng cho người bệnh vẫn đang chảy máu.
ĐIỂM CUỐI CỦA HỒI SỨC
Đánh giá lâm sàng là một thành phần thiết yếu trong hồi sức đa chấn thương. Không phải tất cả các điểm cuối đều áp dụng cho tất cả người bệnh, và quan điểm tổng thể về tình trạng của người bệnh quan trọng hơn việc chú ý đến các chi tiết nhỏ. Các điểm cuối có thể được phân loại thành lâm sàng, xét nghiệm, hoặc theo dõi.
Đánh giá ban đầu người bệnh chấn thương bắt đầu với việc đánh giá và điều trị ABC, và chăm sóc liên tục nên đảm bảo rằng ABC vẫn nguyên vẹn. Những thay đổi trong huyết động học hoặc oxy hóa nên thúc đẩy việc đánh giá lại đường thở, hô hấp và tuần hoàn, đặc biệt là xác nhận vị trí và chức năng đúng của ống nội khí quản, ống ngực, Catheter, thiết bị theo dõi và ống dẫn lưu phẫu thuật. Trong giai đoạn sớm sau chấn thương, hạ huyết áp nên được coi là do chảy máu cho đến khi được chứng minh là do nguyên nhân khác.
Các chỉ số lâm sàng truyền thống như huyết áp, nhịp tim, lượng nước tiểu, tưới máu xa và tri giác nên được sử dụng làm điểm khởi đầu để đánh giá hồi sức. Những bất thường của các dấu hiệu cơ bản này nên thúc đẩy việc khám thực thể kỹ lưỡng và theo dõi sát các can thiệp (liệu pháp thành phần máu, thử thách dịch, giảm đau, an thần). Một số điểm cần lưu ý liên quan đến người bệnh chấn thương: nhịp tim nhanh không đặc hiệu và có thể biểu hiện của giảm thể tích, đau, kích động, có chất kích thích bất hợp pháp, hoặc tổn thương cơ tim. Mặt khác, nhịp tim nhanh có thể vắng mặt hoặc bị giảm ở người bệnh đang nhận liệu pháp chẹn beta trước khi bị chấn thương. Về huyết áp, tăng huyết áp vô căn phổ biến rộng rãi, và huyết áp “bình thường” thực tế có thể biểu hiện hạ huyết áp tương đối và giảm thể tích. Cuối cùng, tình trạng tâm thần có thể bị thay đổi do giảm tưới máu, tổn thương não, sự hiện diện của chất kích thích bất hợp pháp, hoặc các bệnh não mạn tính cơ bản như sa sút trí tuệ.
Các nghiên cứu xét nghiệm hữu ích để đánh giá điểm cuối của hồi sức. Tình trạng toan sau chấn thương, biểu hiện bằng acid lactic tăng dai dẳng hoặc bởi thiếu hụt base (hoặc bicarbonate huyết thanh thấp dai dẳng), gợi ý giảm tưới máu tiềm ẩn hoặc mô hoại tử. Mặc dù giá trị ban đầu (tức là ngay khi đến trung tâm chấn thương) có tương quan với kết quả, xu hướng qua nhiều giờ hữu ích hơn để đánh giá các điều trị và dự đoán tỷ lệ tử vong. Toan máu dai dẳng là dấu hiệu nghiêm trọng. Không thể bình thường hóa nồng độ acid lactic trong huyết thanh vào 24 giờ sau chấn thương có liên quan đến kết quả xấu hơn ở người bệnh bị chấn thương. Tương tự, thiếu hụt base dai dẳng tương quan với kết quả xấu hơn.
Các xét nghiệm đo độ đàn hồi như đàn hồi đồ cục máu đông (thromboelastography, TEG) và đo độ đàn hồi cục máu quay bằng máy ROTEM cũng có thể hướng dẫn liệu pháp thành phần máu và có thể ưu việt hơn các xét nghiệm đông máu thông thường như PT/INR và PTT để hướng dẫn điều chỉnh rối loạn đông máu. Thời gian Prothrombin (PT) và thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT) thường được thực hiện ở 37°C. Do đó, ở người bệnh bình nhiệt, bất thường PT và aPTT cho thấy thiếu hụt yếu tố đông máu. Tuy nhiên, ở người bệnh hạ thân nhiệt, những nghiên cứu này không đánh giá được sự thiếu hụt chất lượng của quá trình đông máu và do đó đánh giá thấp rối loạn đông máu. TEG có thể chứng minh rối loạn đông máu với độ trung thực cải thiện bất kể nhiệt độ cơ thể. TEG đo lường động học của sự phát triển cục máu đông, tính ổn định/bền vững và phân giải. Thời gian R kéo dài có thể chỉ ra nhu cầu truyền huyết tương. Thời gian K tăng hoặc giảm góc alpha có thể biểu hiện giảm fibrinogen máu. Biên độ tối đa thấp cho thấy chức năng tiểu cầu thấp. LY-30 hoặc tiêu hủy cục máu đông ở 30 phút tăng lên với tăng tiêu fibrin và điều trị bằng TXA có thể được chỉ định. Liệu pháp thành phần có thể được hướng đến những phát hiện về rối loạn đông máu này như đã nêu trước đó.
Người bệnh chấn thương có sự xấu đi của các chỉ số này nên được coi là có chảy máu đang diễn ra hoặc không kiểm soát được trong lồng ngực, bụng, khoang sau phúc mạc và chi. Sau khi khám thực thể, X-quang ngực và siêu âm bụng tập trung cho chấn thương (FAST) có thể giúp phân loại các khoang ngực và bụng bằng cách chẩn đoán hoặc loại trừ tràn máu màng phổi tái phát hoặc tràn máu phúc mạc mới. Chảy máu trong lồng ngực, bụng hoặc chi đủ nhanh để gây hạ huyết áp hoặc toan máu thường đòi hỏi kiểm soát trong phòng mổ. Tuy nhiên, chảy máu từ vết rách gan, gãy xương chậu hoặc tổn thương sau phúc mạc có thể khó kiểm soát trong phòng mổ và thay vào đó có thể cần can thiệp mạch với chụp mạch để chẩn đoán và nút mạch để điều trị.
Mặc dù có kinh nghiệm tích lũy rộng rãi với việc theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP), lượng dữ liệu khách quan có sẵn để hướng dẫn các bác sĩ lâm sàng quyết định người bệnh chấn thương nào cần theo dõi là hạn chế. Theo dõi CVP có thể được chỉ định cho người bệnh đã kiểm soát được chảy máu nhưng không đáp ứng thích hợp với hồi sức thể tích ban đầu hoặc cho người bệnh có bệnh tim và phổi mạn tính với dự trữ sinh lý thấp. Các điểm cuối tương tự như ở người bệnh hậu phẫu. Khi không có CVP, siêu âm tại giường có thể được sử dụng để đánh giá đường kính tĩnh mạch chủ dưới, sự thay đổi theo nhịp thở và khả năng xẹp, có thể là dấu hiệu thay thế cho áp lực tâm nhĩ phải và tình trạng thể tích.
Catheter động mạch phổi (PA) vẫn còn gây tranh cãi ở người bệnh chấn thương. Mặc dù đặt Catheter PA về mặt lý thuyết là hấp dẫn và thường được sử dụng, các nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu về người bệnh nặng không nhất quán chứng minh rằng nó có lợi ích về tỷ lệ tử vong so với theo dõi tĩnh mạch trung tâm. Hơn nữa, các nghiên cứu này thường có số lượng người bệnh chấn thương tương đối nhỏ, làm cho kết quả khó áp dụng hơn cho người bệnh chấn thương. Có khả năng lợi ích của Catheter PA không nằm ở sự hiện diện hay vắng mặt của nó, mà ở cách bác sĩ lâm sàng sử dụng dữ liệu có sẵn. Cuối cùng, tính hữu ích của Catheter PA có thể nằm ở việc tối ưu hóa tiền tải thất và hiệu quả tim tổng thể và trong việc ngăn ngừa hồi sức quá mức.
Nhiều phương pháp đánh giá tưới máu tạng vùng đã được đề xuất làm phụ trợ cho khám lâm sàng, nghiên cứu xét nghiệm và theo dõi trung tâm. Đo pH niêm mạc dạ dày cho thấy mối tương quan tốt với các chỉ số khác về tưới máu toàn thân, nhưng nó không được chấp nhận rộng rãi trong lâm sàng. Đo CO2 dưới lưỡi cũng có thể là một chỉ số hữu ích, không xâm lấn của tưới máu. Doppler thực quản và kỹ thuật siêu âm bề mặt đã được nghiên cứu như các phương tiện không xâm lấn để đánh giá cung lượng tim và tiền tải, tương ứng. Các nghiên cứu thêm sẽ làm rõ vai trò của chúng trong việc đạt được hồi sức đầy đủ cho người bệnh bị chấn thương.
Những cân nhắc đặc biệt trong chấn thương
KIỂM SOÁT TỔN THƯƠNG
Vay mượn từ thuật ngữ của Hải quân Hoa Kỳ, “kiểm soát tổn thương” đã được sử dụng rộng rãi trong chăm sóc người bệnh bị chấn thương nặng. Mô hình này bao gồm kiểm soát nhanh chóng chảy máu ồ ạt và nhiễm bẩn đường tiêu hóa, sau đó là hồi sức trong ICU phẫu thuật, rồi quay lại phòng mổ để xác định kỹ lưỡng và điều trị dứt điểm các tổn thương khi người bệnh đã ổn định. Đôi khi, nhiều chu kỳ giữa ICU phẫu thuật và phòng mổ là cần thiết, tùy thuộc vào mức độ tổn thương và sự ổn định sinh lý. Một số người bệnh có cân mạc trong khoang bụng không đủ sau thời gian kiểm soát tổn thương kéo dài và cần đóng bụng bằng ghép da. Ban đầu được mô tả cho các tổn thương bụng, khái niệm kiểm soát tổn thương đã được mở rộng đến lồng ngực, chi, cổ và thậm chí hộp sọ.
Để thực hiện thành công phương pháp kiểm soát tổn thương cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa, bao gồm phẫu thuật viên chấn thương, bác sĩ gây mê hồi sức và bác sĩ hồi sức tích cực. Khi nghi ngờ có chảy máu và nhiễm bẩn trong ổ bụng, kíp phẫu thuật bắt đầu bằng việc mở bụng và nhanh chóng đặt gạc vào cả bốn góc phần tư của khoang bụng. Đồng thời, kíp gây mê tiến hành hồi sức tích cực cho người bệnh bằng máu và các chế phẩm máu. Kíp phẫu thuật thăm dò khoang bụng một cách có hệ thống, với mục tiêu kiểm soát nhanh chóng tình trạng chảy máu đe dọa tính mạng và nhiễm bẩn đường tiêu hóa trầm trọng.
Tổn thương các động mạch lớn được đặt shunt tạm thời; các động mạch nhỏ hơn và hầu hết các tĩnh mạch (trừ tĩnh mạch chủ dưới đoạn trên thận) được thắt buộc; tổn thương đường tiêu hóa được đóng nhanh bằng phương pháp khâu nguyên phát hoặc cắt bỏ bằng máy cắt nối mà không cần phục hồi lưu thông ngay; tổn thương gan được kiểm soát bằng đặt gạc; tổn thương lách và thận được xử trí bằng cắt bỏ tạng tương ứng. Cân mạc thành bụng không được đóng lại mà thay vào đó là đóng bụng tạm thời bằng nhiều phương pháp khác nhau đã được mô tả. Người bệnh có tổn thương gan hoặc vùng chậu được xác định trong cuộc phẫu thuật ban đầu thường cần được chụp động mạch chẩn đoán và nút mạch ngay sau mổ. Đối với người bệnh có tổn thương gan, hiệu quả điều trị của can thiệp nút mạch rất cao.
Phẫu thuật được theo sau bởi giai đoạn ICU của kiểm soát tổn thương. Với chảy máu và nhiễm bẩn đường tiêu hóa được kiểm soát bởi đội chấn thương, đội hồi sức có nhiệm vụ đạt được sự “bắt giữ” sinh lý của người bệnh. Mục tiêu của giai đoạn này là ngăn ngừa hoặc đảo ngược bộ ba tử thần gồm hạ thân nhiệt, rối loạn đông máu và toan máu (Hình 36.1).
Hình 36.1 Bộ ba tử thần gồm hạ thân nhiệt, rối loạn đông máu và toan máu.
Có nhiều biện pháp để ngăn ngừa và điều trị hạ thân nhiệt. Các biện pháp đơn giản làm giảm mất nhiệt và cho phép làm ấm lại, mặc dù chậm, bằng cách tăng nhiệt độ phòng và sử dụng chăn, đèn sưởi và chăn sưởi ấm bằng không khí. Nên sử dụng máy làm ấm dịch truyền tĩnh mạch. Mạch thông khí nên có không khí được làm ấm. Đệm sưởi, đặt sát thân và chi, rất hiệu quả để làm ấm lại. Dịch được làm ấm được lưu thông qua các ống trong đệm. Mặc dù rửa khoang bụng bằng dịch ấm được mô tả, không rõ liệu tốc độ làm ấm lại có tốt hơn các phương pháp ít xâm lấn khác hay không. Phương pháp làm ấm lại nhanh nhất và xâm lấn nhất là làm vòng tĩnh mạch-tĩnh mạch, nhưng nhược điểm chính của nó là yêu cầu sử dụng heparin toàn thân.
Toan máu chủ yếu gây ra bởi giảm tưới máu và hạ thân nhiệt, và do đó nên được điều chỉnh khi nhiệt độ bình thường và thể tích tuần hoàn được khôi phục. Toan máu tự nó không nên được điều trị bằng dung dịch bicarbonate trừ khi để điều trị kích thích cơ tim (tức là pH <7,2). Rối loạn đông máu có nhiều yếu tố, bao gồm mất máu, tiêu thụ và pha loãng tiểu cầu và yếu tố đông máu, tăng tiêu fibrin, suy giảm chức năng của các thành phần máu, hạ thân nhiệt và hạ canxi máu. Như đã thảo luận trước đó, điều trị cùng với việc làm ấm lại và điều chỉnh toan máu tiếp tục với liệu pháp chế phẩm máu cho đến khi các giá trị xét nghiệm đông máu hoặc xét nghiệm nhớt đàn hồi được điều chỉnh và/hoặc chảy máu có ý nghĩa lâm sàng được giải quyết.
CHÈN BÓNG NỘI MẠCH ĐỘNG MẠCH CHỦ ĐỂ HỒI SỨC (REBOA)
REBOA là một kỹ thuật có thể được sử dụng trong điều trị ban đầu cho người bệnh chấn thương trong sốc mất máu để kiểm soát nhanh chóng và tạm thời chảy máu ở các vị trí không thể băng ép được như bụng và khung chậu. Một nguồn chảy máu không thể ép khác là chảy máu vùng nối hoặc chảy máu tại chỗ nối của chi với thân mình không thể áp dụng được garô. REBOA không nên được sử dụng ở người bệnh mất máu ồ ạt với chấn thương xuyên thấu ngực vì điều này có thể đẩy nhanh chảy máu khoang ngực và trong trường hợp đó nên được kiểm soát bằng kỹ thuật phẫu thuật mở. Khi đặt REBOA, động mạch đùi được sử dụng để đưa bóng vào lòng động mạch chủ. Cách tiếp cận qua da, khi có thể, được ưu tiên; tuy nhiên, có thể cần tiếp cận mở bằng phẫu thuật. Khi đã loại trừ chảy máu khoang ngực bằng siêu âm, chụp X-quang thường quy hoặc dẫn lưu màng phổi, bóng nội động mạch được triển khai ngay phía trên lỗ hoành ở vùng 1 của động mạch chủ (Hình 36.2). Đối với chảy máu lớn ở khung chậu hoặc vùng nối, bóng được bơm căng ở mức chia đôi động mạch chủ trong vùng 3. Kiểm soát tạm thời này cho phép tiếp cận dứt điểm hơn đối với các tổn thương mạch máu lớn.
Hình 36.2 Các vùng động mạch chủ: Vùng I kéo dài từ nguồn của động mạch dưới đòn trái đến động mạch thân tạng; Vùng II kéo dài từ động mạch thân tạng đến động mạch thận thấp nhất; và Vùng III kéo dài từ động mạch thận thấp nhất đến chỗ chia đôi động mạch chủ. Triển khai chèn bóng nội mạch vào động mạch chủ cho hồi sức (REBOA) giới hạn ở Vùng I và III. (Từ Bogert JN, Davis KM, Kopelman TR, Vail S, Pieri P, Matthews MR. Resuscitative endovascular balloon occlusion of the aorta with a low profile, wire free device: A game changer? Trauma Case Rep 2017; 7: 11–14.)
Những người ủng hộ REBOA coi kỹ thuật này ít xâm lấn hơn mở ngực để hồi sức và kẹp động mạch chủ trong lồng ngực. Một nghiên cứu hồi cứu (n=31) tại một trung tâm chấn thương cấp 1 bận rộn cho thấy việc bơm căng bóng có mối tương quan với tăng huyết áp và kiểm soát chảy máu tạm thời ở hầu hết người bệnh. Tuy nhiên, chưa có thử nghiệm ngẫu nhiên nào so sánh REBOA với các phương pháp kiểm soát chảy máu khác. Hơn nữa, REBOA đã được liên kết với các biến chứng mạch máu đòi hỏi thêm các thủ thuật.
TĂNG ÁP LỰC TRONG Ổ BỤNG VÀ HỘI CHỨNG KHOANG BỤNG
Tăng áp lực trong ổ bụng (IAH) và hội chứng khoang bụng (ACS) là những biến chứng được công nhận rõ ràng ở người bệnh chấn thương nặng. Chấn thương, chảy máu, thiếu máu cục bộ, tái tưới máu và hồi sức đều góp phần vào những biến chứng này. IAH tồn tại khi áp lực trong bụng tăng cao mà không có bằng chứng về rối loạn chức năng cơ quan. ACS tồn tại khi tăng áp lực trong ổ bụng gây ra rối loạn chức năng hoặc suy cơ quan. IAH có thể được báo hiệu bởi áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP) tăng, áp lực đường thở tối đa cao hoặc khó tạo ra thể tích khí lưu thông, thiểu niệu hoặc chức năng thận xấu đi, hoặc bởi tình trạng toan lactic xấu đi hoặc mới xuất hiện.
Các yếu tố nguy cơ làm tăng áp lực trong ổ bụng (IAP) bao gồm phẫu thuật bụng lớn hoặc chấn thương, bỏng lớn, nằm sấp, tắc ruột, viêm tụy cấp, xơ gan mất bù với cổ trướng nhiều, tràn máu phúc mạc, nhiễm trùng trong ổ bụng, truyền dịch tinh thể khối lượng lớn và truyền máu nhiều hơn 10 đơn vị.
Hiệp hội Thế giới về Hội chứng Khoang Bụng (WSACS) đã công bố các định nghĩa và hướng dẫn thực hành lâm sàng đồng thuận vào năm 2013. Họ định nghĩa IAP khi nghỉ ngơi ở 5-7 mmHg ở người lớn nặng. IAH được định nghĩa là áp lực kéo dài lớn hơn 12 mmHg và được chia thành bốn cấp độ tăng dần (Cấp I, IAP 12-15 mmHg; Cấp II, IAP 16-20 mmHg; Cấp III, IAP 21-25 mmHg; Cấp IV, IAP >25 mmHg). ACS được định nghĩa là nguyên phát khi liên quan đến chấn thương hoặc bệnh lý ở vùng bụng-chậu và thường đòi hỏi can thiệp sớm bằng phẫu thuật hoặc can thiệp mạch. ACS thứ phát phát triển do các tình trạng không bắt nguồn từ vùng bụng-chậu như cổ trướng thứ phát do quá tải thể tích. ACS tái phát chỉ tình trạng IAH hoặc ACS tái phát sau điều trị y khoa hoặc phẫu thuật trước đó của IAH hoặc ACS nguyên phát hoặc thứ phát.
Để ước tính IAP, áp lực bàng quang thường được sử dụng làm chỉ số thay thế. Bàng quang được bơm đầy 25 mL nước muối vô trùng và Catheter bàng quang được kẹp lại. Người bệnh nên nằm ngửa và được giãn cơ để giảm thiểu các yếu tố bên ngoài góp phần vào áp lực bàng quang. Đầu chuyển đổi được đặt ở đường nách giữa. Áp lực của hệ thống sau đó được chuyển đổi.
Các biện pháp không xâm lấn để điều trị IAH bao gồm cải thiện sự tuân thủ của thành bụng bằng an thần, giảm đau và giãn cơ; giải áp dạ dày và trực tràng với sơ tán nội dung trong lòng; dẫn lưu dịch bụng bằng chọc dò; sử dụng dịch, thuốc lợi tiểu và/hoặc lọc máu một cách thận trọng để điều chỉnh quá tải thể tích; tối ưu hóa thông khí để tránh tăng áp lực nội ngực.
Một khi ACS đã được xác định, các biện pháp ngay lập tức để điều trị căn nguyên cơ bản phải được tiến hành. Nếu nguyên nhân là ACS nguyên phát, mở bụng và đóng bụng tạm thời là cần thiết để giảm IAP và khôi phục tưới máu. Sau mở bụng giải áp, cân mạc bụng được để mở và đóng bụng tạm thời được thiết kế để che phủ tạng mà không gây căng thẳng lên vết đóng. Ngay cả như vậy, ACS tái phát trong bụng mở đã được mô tả.
Ngay cả khi được điều trị, ACS có liên quan đến tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Có sự đánh giá ngày càng cao về thành phần do con người gây ra của IAH và ACS, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đạt được – nhưng không vượt quá – các điểm cuối của hồi sức.
CÁC HỘI CHỨNG KHOANG KHÁC
Cả cơ chế chấn thương đụng dập và xuyên thấu đều có nguy cơ gây hội chứng khoang cho mô. Các chi – không chỉ bắp chân mà còn đùi, mông và chi trên – nên được kiểm tra cẩn thận về sự tăng căng. Các chi có tăng căng nên được đánh giá ngay lập tức bởi bác sĩ phẫu thuật. Sự hiện diện của mạch xa có thể phát hiện được bằng siêu âm Doppler hoặc bắt mạch không loại trừ hội chứng khoang. Đau mới xuất hiện nên cảnh báo bác sĩ, nhưng đau thường đã hiện diện và sự vắng mặt của nó không loại trừ hội chứng khoang. Các dấu hiệu thần kinh khác, như rối loạn vận động hoặc cảm giác, nên thúc đẩy đánh giá phẫu thuật ngay lập tức. Theo dõi xâm lấn áp lực khoang có thể giúp thiết lập chẩn đoán, nhưng áp lực bình thường có thể dẫn đến cảm giác an toàn giả. Nói chung, an toàn hơn khi hành động dựa trên nghi ngờ lâm sàng mạnh mẽ hơn là để hội chứng khoang không được điều trị. Phẫu thuật mở cân rộng nên được thực hiện ngay lập tức nếu hội chứng khoang được chẩn đoán hoặc nghi ngờ về mặt lâm sàng.
QUẢN LÝ BỆNH NHÂN CÓ CHẤN THƯƠNG NÃO
Hồi sức cho người bệnh bị chấn thương não cần được đề cập đặc biệt. Mặc dù các dấu hiệu lâm sàng và nghiên cứu xét nghiệm hữu ích cho tưới máu toàn thân, người bệnh bị chấn thương đầu nặng (điểm Glasgow Coma [GCS] ≤8) được hưởng lợi từ đánh giá trực tiếp hơn về tưới máu não. Kết quả sau chấn thương đầu phụ thuộc rõ rệt vào tưới máu não. Hạ huyết áp và giảm oxy máu phải được tránh bằng mọi giá. Thậm chí một đợt ngắn hạ huyết áp (huyết áp tâm thu [BP] <90 mmHg) hoặc giảm oxy máu (PaO2 <60 mmHg) cũng có hại cho kết quả lâu dài sau chấn thương đầu. Chỉ số liên quan lâm sàng của tưới máu não là áp lực tưới máu não (CPP), được định nghĩa là sự khác biệt giữa huyết áp động mạch trung bình (MAP) và áp lực nội sọ (ICP). Các nghiên cứu hồi cứu gợi ý rằng không duy trì CPP trên 60 mmHg có liên quan đến kết quả xấu hơn. Các thiết bị theo dõi ICP có thể hướng dẫn các liệu pháp y tế (ví dụ, dịch và/hoặc thuốc tăng huyết áp để tăng CPP; thuốc lợi tiểu thẩm thấu để giảm ICP). Duy trì ICP liên tục ở mức dưới 20 mmHg có thể cải thiện kết quả sau chấn thương não.
Quỹ Chấn thương Não khuyến nghị theo dõi ICP trong các tình huống sau: ▪ Chấn thương đầu nặng (được định nghĩa là GCS 3 đến 8) với chụp cắt lớp vi tính (CT) đầu bất thường khi nhập viện (ví dụ, CT cho thấy tụ máu, bầm tím, phù, hoặc xẹp bể đáy). ▪ Chấn thương đầu nặng với CT đầu bình thường khi nhập viện và có hai hoặc nhiều hơn các yếu tố sau khi nhập viện: tuổi lớn hơn 40, co cứng vận động một bên hoặc hai bên, huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg. ▪ Theo quyết định của bác sĩ ở người bệnh tỉnh táo với tổn thương khối do chấn thương. |
Hơn nữa, đầu dò ICP có thể có ống dẫn lưu não thất để dẫn lưu dịch não tủy (CSF) và do đó giảm ICP. CPP được tăng lên bằng cách tăng MAP (hồi sức thể tích, sau đó dùng thuốc co mạch nếu cần thiết) và/hoặc bằng cách giảm ICP (bằng thuốc lợi tiểu thẩm thấu như mannitol hoặc bằng dẫn lưu CSF). Ngưỡng truyền máu lý tưởng cho người bệnh bị chấn thương não không được biết rõ. Ngưỡng truyền máu truyền thống là 10 g/dL, nhưng điều này gần đây đã bị thách thức. Cho đến khi có các nghiên cứu xác định hơn, thận trọng là nên tự do hơn trong truyền hồng cầu khi chăm sóc người bệnh bị chấn thương não. Dung dịch muối ưu trương là một thành phần an toàn và hiệu quả trong hồi sức chấn thương não và nên được xem xét sau hồi sức bằng dịch keo. Tăng thông khí chủ đích được chỉ định để kiểm soát cấp tính ICP, nhưng không có lợi ích như một liệu pháp ICU kéo dài, vì việc kiểm soát ICP bằng tăng thông khí dựa trên giảm lưu lượng máu não.
Oxy hóa vỏ não đang được nghiên cứu như một phụ trợ cho việc theo dõi ICP. Những thiết bị này cảnh báo bác sĩ lâm sàng về tình trạng thiếu oxy mô não tiềm ẩn (áp lực oxy từng phần [PO2] <15 đến 20 mmHg) – tức là mô não thiếu máu cục bộ mặc dù CPP đầy đủ. Các nghiên cứu thêm sẽ làm rõ vai trò của nó trong hồi sức não.
Ngoài các biện pháp hồi sức này, Quỹ Chấn thương Não đã công bố các hướng dẫn cho việc quản lý chấn thương sọ não nặng (TBI) và dự phòng co giật sau chấn thương sớm (PTS). Mặc dù không có khuyến nghị nào được đưa ra để giảm tỷ lệ PTS muộn, các khuyến nghị cấp IIa gợi ý rằng phenytoin nên được sử dụng để giảm tỷ lệ PTS sớm (trong vòng 7 ngày sau chấn thương) khi lợi ích tổng thể được cảm thấy là lớn hơn các biến chứng liên quan đến điều trị như vậy. Tuy nhiên, PTS sớm không liên quan đến kết quả xấu hơn. Tại thời điểm các hướng dẫn được công bố, không có đủ bằng chứng để khuyến nghị levetiracetam so với phenytoin về hiệu quả trong việc ngăn ngừa co giật sau chấn thương sớm và độc tính.
THUYÊN TẮC HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH (VTE)
Người bệnh bị chấn thương có nguy cơ cao hơn về huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) và thuyên tắc phổi (PE) so với cả người bệnh không bị chấn thương hoặc các nhóm người bệnh nằm viện khác. Phân tích tổng hợp cho thấy tỷ lệ DVT tổng thể là 11,8% và tỷ lệ PE là 1,5% trong số tất cả người bệnh bị chấn thương.
Mặc dù tần suất của các biến chứng huyết khối, có sự tranh cãi đáng kể và sự thay đổi trong thực hành hiện tại. Hầu hết các trung tâm chấn thương đã phát triển các cách tiếp cận chuẩn hóa để dự phòng biến cố huyết khối tĩnh mạch. Vận động sớm là một biện pháp dự phòng đơn giản. Tuy nhiên, nhiều người bệnh bị hạn chế bởi chấn thương hoặc tình trạng tâm thần của họ. Thiết bị nén tuần tự nên được xem xét cho tất cả người bệnh mà không có vết thương, gãy xương, nẹp và khung cố định ngoài. Người bệnh có yếu tố nguy cơ cho VTE và không có chống chỉ định nên được dự phòng hóa học.
Người bệnh có nguy cơ cao là những người dự kiến sẽ nhập viện >24 giờ và có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ sau: ▪ Dự kiến bất động >2 ngày ▪ Tiền sử DVT, PE trước đó, hoặc bệnh tăng đông máu ▪ Chấn thương đầu với GCS < 8 hoặc không thể đáp ứng lệnh ▪ Gãy xương chậu ▪ Gãy xương dài ▪ Gãy xương cột sống ▪ Tổn thương tĩnh mạch chi dưới ▪ Ung thư ▪ Béo phì ▪ Gãy nhiều xương sườn |
Nhiều nghiên cứu tại một trung tâm đã chứng minh hiệu quả của một hoặc nhiều trong ba biện pháp dự phòng phổ biến nhất – dự phòng cơ học bằng thiết bị nén tuần tự (SCD), heparin không phân đoạn liều thấp dưới da (SQH), và heparin trọng lượng phân tử thấp dưới da (LMWH). Khi được phân tích tổng hợp, không có biện pháp nào về mặt thống kê hiệu quả hơn không dự phòng, nhưng phân tích tổng hợp này không đủ mạnh để loại trừ một lợi ích thực sự của bất kỳ liệu pháp nào. Trong số SCD, SQH và LMWH, LMWH có lẽ là lựa chọn tốt nhất cho dự phòng DVT ở người bệnh bị chấn thương không có nguy cơ chảy máu quá mức. Một nghiên cứu từ Đại học Michigan sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu Dự án Cải thiện Chất lượng Chấn thương Michigan (MTQIP) để tiến hành một nghiên cứu hiệu quả so sánh đánh giá UFH so với LMWH cho kết quả trong bệnh viện về VTE, PE, DVT và tử vong. Họ phát hiện ra rằng người bệnh chấn thương nhận được LMWH như liều đầu tiên của dự phòng VTE có nguy cơ giảm đáng kể về VTE, PE, DVT và tử vong khi so sánh với UFH. LMWH có thể hiệu quả hơn SQH trong việc phòng ngừa DVT mà không làm tăng nguy cơ biến chứng chảy máu. Chống chỉ định của LMWH bao gồm suy thận hoặc suy thận hoặc sự hiện diện của Catheter giảm đau ngoài màng cứng. Trong những tình huống này, heparin không phân đoạn và thiết bị nén gián đoạn là những lựa chọn thay thế chấp nhận được.
Đối với người bệnh có nguy cơ cao về biến cố huyết khối mà không thể dùng thuốc chống đông máu hoặc chịu đựng thêm chảy máu (ví dụ, người bệnh có xuất huyết nội sọ, tụ máu chậu, chấn thương mắt có xuất huyết, hoặc chấn thương gan, lách hoặc thận), đặt lọc tĩnh mạch chủ dưới (IVC) để dự phòng vẫn còn gây tranh cãi. Hướng dẫn của Hiệp hội Phẫu thuật Chấn thương Đông (EAST) khuyến nghị xem xét đặt lọc IVC nhưng Trường Cao đẳng Bác sĩ Lồng ngực Hoa Kỳ (ACCP) khuyến nghị không sử dụng lọc IVC chính cho dự phòng VTE và khuyến nghị SCD và bắt đầu dự phòng hóa học khi chống chỉ định đã giải quyết. Hậu quả lâu dài của các lọc IVC không được biết rõ. Có nhiều loại lọc IVC có thể tháo rời tồn tại và chúng có thể được xem xét ở người bệnh được coi là ứng cử viên để đặt lọc.
Các cân nhắc khác sau chấn thương
DỰ PHÒNG LOÉT DO STRESS
Người bệnh bị chấn thương có nguy cơ tăng về loét do stress và dự phòng được chỉ định cho người bệnh có nguy cơ cao. Tỷ lệ chảy máu đường tiêu hóa dao động từ 1,5% đến 8,5% ở người bệnh trong đơn vị chăm sóc tích cực nhưng có thể cao tới 15% ở người bệnh không nhận được dự phòng loét do stress. Tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể ở người bệnh ICU phát triển chảy máu đường tiêu hóa trên có biểu hiện lâm sàng, 49% so với 9%. Các yếu tố nguy cơ bao gồm rối loạn đông máu được định nghĩa là số lượng tiểu cầu <50.000 trên m³, Tỷ lệ Chuẩn hóa Quốc tế (INR) >1,5, hoặc thời gian thromboplastin từng phần (PTT) >2 lần giá trị đối chứng, thở máy lâu hơn 48 giờ, chấn thương sọ não, chấn thương tủy sống, bỏng >30%, hoặc tiền sử chảy máu đường tiêu hóa trên.
Có nhiều lựa chọn điều trị (sucralfate, thuốc đối kháng thụ thể histamine-2 [H2RA], và thuốc ức chế bơm proton [PPI]). Trong phân tích tổng hợp lớn nhất của 18 nghiên cứu, việc sử dụng PPI ngăn ngừa nhiều biến cố chảy máu đường tiêu hóa trên hơn so với H2RA mà không có bất kỳ tác động nào đến tỷ lệ viêm phổi. Ở người bệnh thở máy, sucralfate và H2RA có hiệu quả trong việc phòng ngừa chảy máu, với H2RA có thể hiệu quả hơn một chút. Một số nghiên cứu gợi ý rằng sucralfate có liên quan đến tỷ lệ viêm phổi bệnh viện thấp hơn, nhưng những nghiên cứu khác không thể chứng minh sự khác biệt. Cần có các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên lớn để làm sáng tỏ lợi ích của một phác đồ so với phác đồ khác và mối quan hệ giữa dự phòng loét do stress và biến chứng nhiễm trùng.
HỖ TRỢ DINH DƯỠNG
Hỗ trợ dinh dưỡng là vô cùng quan trọng ở người bệnh bị chấn thương khi các vấn đề huyết động cấp tính đã được giải quyết. Người bệnh bị chấn thương thường ở trong trạng thái dị hóa và có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với trạng thái trước khi bị chấn thương. Cả dinh dưỡng đường ruột và dinh dưỡng đường tĩnh mạch đều có vai trò trong chăm sóc sau chấn thương. Đường ruột được ưu tiên hơn.
Hiệp hội Hồi sức Nội khoa (Society of Critical Care Medicine) và Hiệp hội về Dinh dưỡng Đường tĩnh mạch và Đường ruột Hoa Kỳ (American Society for Parenteral and Enteral Nutrition – A.S.P.E.N.) đã công bố hướng dẫn về đánh giá và cung cấp hỗ trợ dinh dưỡng cho người bệnh nặng. Họ khuyến nghị đánh giá nguy cơ dinh dưỡng cho người bệnh ICU và bắt đầu dinh dưỡng đường ruột khi có thể và càng sớm càng tốt trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi nhập viện. Dinh dưỡng đường ruột nên được bắt đầu ở người bệnh ổn định huyết động và sử dụng thận trọng ở người bệnh đang dùng thuốc vận mạch. Ở người bệnh nặng, đặc biệt là những người có chấn thương bụng, dinh dưỡng đường ruột có liên quan đến tỷ lệ biến chứng nhiễm trùng thấp hơn (viêm phổi, áp xe trong ổ bụng, nhiễm trùng đường truyền) so với dinh dưỡng đường tĩnh mạch. Khoảng một nửa số người bệnh không thể dung nạp đủ lượng dinh dưỡng đường ruột theo mục tiêu vào 1 tuần sau chấn thương. Dinh dưỡng đường tĩnh mạch nên được xem xét ở người bệnh không đạt được ít nhất 50% dinh dưỡng đường ruột mục tiêu vào ngày thứ 7 sau chấn thương.
Dinh dưỡng đường ruột có thể được cung cấp qua đường dạ dày hoặc hậu môn vị. Không có đường nào được chứng minh là vượt trội hơn ở người bệnh chấn thương về tỷ lệ tử vong; tuy nhiên, đường hậu môn vị có thể giảm nguy cơ hít và viêm phổi. Vì việc nuôi ăn qua đường dạ dày thường đơn giản hơn, nó nên là lựa chọn đầu tiên. Nuôi ăn qua đường hậu môn vị nên được xem xét cho người bệnh có nguy cơ hít cao, đặc biệt là người bệnh có chấn thương đầu, nơi liệt dạ dày phổ biến. Thể tích dư dạ dày truyền thống được sử dụng để đánh giá dung nạp nhưng kể từ đó đã được chứng minh là không đúng và có liên quan đến giảm lượng calo cung cấp. Các cách khác để đánh giá dung nạp bao gồm chướng bụng, đau, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, táo bón >3 ngày, và/hoặc bong bóng dạ dày lớn nhìn thấy trên phim chụp X-quang thường quy của bụng. Các công thức đường ruột với các chất bổ sung khác nhau (ví dụ, arginine, glutamine, dầu cá) đã được nghiên cứu trong các quần thể chăm sóc tích cực, bao gồm cả người bệnh chấn thương, nhưng không có công thức đường ruột cụ thể nào đã chứng minh kết quả vượt trội một cách nhất quán. Dựa trên đánh giá có hệ thống, các hướng dẫn chưa chính thức khuyến nghị các công thức dinh dưỡng đường ruột tăng cường mà chỉ đơn giản là gợi ý xem xét chúng. Đúng hơn, có vẻ như đơn giản là tránh đói là chìa khóa để giảm bệnh tật nhiễm trùng ở người bệnh nặng.
KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT
Tăng đường huyết ở người bệnh chấn thương có liên quan đến tăng biến chứng nhiễm trùng và tỷ lệ tử vong. Người bệnh bị chấn thương có nồng độ glucose trong huyết thanh lớn hơn 200 mg/dL đã liên tục cho thấy kết quả xấu hơn: tăng thời gian nằm ICU (và do đó tăng thời gian nằm viện), kéo dài thời gian thở máy, tỷ lệ nhiễm trùng cao hơn và tỷ lệ tử vong cao hơn. Tuy nhiên, phạm vi mục tiêu tối ưu cho kiểm soát đường huyết đã được tranh luận trong hai thập kỷ qua – đặc biệt, liệu mục tiêu đường huyết thấp hơn có liên quan đến cải thiện kết quả hay không.
Thử nghiệm lớn nhất đến nay liên quan đến kiểm soát đường huyết là thử nghiệm đa trung tâm Normoglycemia in Intensive Care Evaluation Survival Using Glucose Algorithm Regulation (NICE-SUGAR), đã phân bổ ngẫu nhiên 6104 người bệnh ICU nội và ngoại khoa vào liệu pháp insulin tích cực (mục tiêu nồng độ glucose trong máu từ 81-108 mg/dL [4,5-6 mmol/L]) hoặc kiểm soát glucose thông thường (mục tiêu glucose trong máu <180 mg/dL [<10 mmol/L]). Nhóm insulin tích cực có tỷ lệ tử vong cao hơn và tỷ lệ hạ đường huyết nặng cao hơn. Tuy nhiên, một phân tích nhóm con gợi ý xu hướng có thể cải thiện kết quả với insulin tích cực ở người bệnh chấn thương. Tuy nhiên, mục tiêu glucose trong máu từ 140 đến 180 mg/dL (7,7-10 mmol/L) thay vì mục tiêu nghiêm ngặt hơn từ 80 đến 110 mg/dL (4,4-6,1 mmol/L) hoặc mục tiêu tự do hơn (ví dụ, 180-200 mg/dL [10-11,1 mmol/L]) hiện được khuyến nghị cho người bệnh ngoại khoa ICU.
BIẾN CHỨNG NHIỄM TRÙNG
Người bệnh chấn thương thường có nội dung dạ dày hiện diện tại thời điểm chấn thương, đặt họ vào nguy cơ cao hơn về viêm phổi hít và viêm phổi do hít, cả từ mất khả năng bảo vệ đường thở hoặc từ đặt nội khí quản nhanh. “Gói biện pháp thở máy”, được thiết kế để giảm nguy cơ viêm phổi liên quan đến thở máy (VAP), phổ biến trong ICU. Trong giới hạn chấn thương và điều trị của người bệnh, người bệnh chấn thương thở máy nên nhận tất cả các liệu pháp như vậy để giảm tỷ lệ VAP. Người bệnh chấn thương đặt nội khí quản nên được nâng đầu giường ở 45 độ sau khi đã loại trừ chấn thương cột sống ngực và thắt lưng. Cho đến lúc đó, hoặc nếu có chấn thương cột sống, người bệnh nên được đặt ở tư thế đầu thấp ngược lại.
Tỷ lệ nhiễm trùng máu liên quan đến Catheter cao hơn ở người bệnh chấn thương. Điều này có thể phản ánh các điều kiện không lý tưởng khi chúng được đặt. Những đường truyền này nên được loại bỏ hoặc thay thế bằng đường truyền ngoại vi càng sớm càng tốt. Tương tự, nhiễm trùng đường tiểu liên quan đến Catheter có thể được giảm thiểu bằng cách loại bỏ sớm Catheter bàng quang.
Không có vai trò cho việc sử dụng kháng sinh thường quy ở hầu hết người bệnh. Ở người bệnh cần mở bụng, một liều tiền phẫu đơn được đưa ra trong vòng 1 giờ trước khi rạch da là thích hợp. Nếu tổn thương tạng rỗng được xác định và sửa chữa kịp thời, có bằng chứng cho việc giới hạn kháng sinh hậu phẫu trong 24 giờ sau phẫu thuật. Các khóa điều trị kháng sinh dài hơn không làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng và hình thành áp xe. Dự phòng kháng sinh có thể được biện minh trong một số trường hợp gãy xương hở.
GIẢM ĐAU
Kiểm soát đau ở người bệnh chấn thương tương tự như ở người bệnh hậu phẫu. Người bệnh bị chấn thương nặng đòi hỏi đánh giá cẩn thận về cơn đau của họ. Bất cứ khi nào có thể, thuốc dựa trên opioid nên được hạn chế hoặc tránh và nên tuân theo một phác đồ thuốc giảm đau đa mô thức không opioid. Hướng dẫn của Lực lượng Đặc nhiệm Đau Cấp của Hiệp hội Bác sĩ Gây mê Hoa Kỳ khuyến nghị sử dụng kế hoạch điều trị kiểm soát đau đa mô thức, phong bế ngoài màng cứng/vùng với thuốc tê cục bộ, và một phác đồ đều đặn các chất ức chế cyclooxygenase (COX), thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), hoặc acetaminophen.
Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận mối quan hệ mạnh mẽ giữa gãy xương sườn và biến chứng hô hấp hoặc tử vong. Mặc dù gãy xương sườn làm suy nhược tất cả người bệnh, người bệnh cao tuổi có gãy xương sườn đặc biệt dễ bị tổn thương. Một số nghiên cứu gợi ý rằng giảm đau ngoài màng cứng vượt trội hơn giảm đau do người bệnh kiểm soát ở người bệnh có gãy xương sườn, nhưng những nghiên cứu khác không tìm thấy lợi ích. Cố định phẫu thuật nhiều xương sườn gãy và mảng sườn đang được chấp nhận và có thể tăng cường cơ học phổi và giảm các biến chứng như viêm phổi và tử vong. Các thử nghiệm lâm sàng còn thiếu và cần nhiều nghiên cứu hơn trong lĩnh vực này.
Tóm tắt
Người bệnh đa chấn thương không đồng nhất về tình trạng trước chấn thương, kiểu chấn thương và quản lý sau chấn thương. Một số người bệnh bị chấn thương không cần can thiệp phẫu thuật, trong khi những người khác cần nhiều phẫu thuật. Do đó, đối với nhiều người bệnh bị đa chấn thương, giai đoạn hậu phẫu sớm là sự kết hợp của giai đoạn sau chấn thương sớm và giai đoạn tiền phẫu. Ở tất cả người bệnh, hồi sức, điều trị và can thiệp nên được thực hiện nhanh chóng và đánh giá lại thường xuyên. Cần phán đoán để lựa chọn giữa nhiều điểm cuối của hồi sức. Việc đạt nhanh chóng mục tiêu hồi sức không nên nhường chỗ cho hồi sức quá mức do con người gây ra, điều này có hậu quả riêng. Các kỹ thuật kiểm soát tổn thương đã cải thiện kết quả từ chấn thương nặng, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các bác sĩ ngoại chấn thương, bác sĩ gây mê và bác sĩ hồi sức. Nhiều thực hành dựa trên bằng chứng trong chăm sóc hậu phẫu và chăm sóc tích cực đã được áp dụng thành công cho chăm sóc sau chấn thương. Lý tưởng nhất, tất cả các thực hành như vậy được đánh giá để cải thiện việc chăm sóc người bệnh bị đa chấn thương.
HẾT CHƯƠNG 36.
Bảng chú giải thuật ngữ Anh – Việt. Chương 36. Đa chấn thương
STT | Thuật ngữ tiếng Anh | Cách phát âm | Nghĩa Tiếng Việt |
---|---|---|---|
1 | Multisystem trauma | /ˌmʌltiˈsɪstəm ˈtraʊmə/ | Đa chấn thương (tổn thương ảnh hưởng đến nhiều hệ cơ quan) |
2 | Advanced Trauma Life Support (ATLS) | /ədˈvɑːnst ˈtraʊmə laɪf səˈpɔːt/ | Cấp cứu Nâng cao về Chấn thương |
3 | Primary survey | /ˈpraɪməri ˈsɜːveɪ/ | Thăm khám ban đầu |
4 | Secondary survey | /ˈsekəndəri ˈsɜːveɪ/ | Thăm khám thứ phát |
5 | Tertiary survey | /ˈtɜːʃəri ˈsɜːveɪ/ | Thăm khám tam phát |
6 | ABCs | /eɪ biː siːz/ | Đường thở, Hô hấp, Tuần hoàn (Airway, Breathing, Circulation) |
7 | Balanced resuscitation | /ˈbælənst riːˌsʌsɪˈteɪʃn/ | Hồi sức cân bằng |
8 | Red blood cells (RBCs) | /red blʌd selz/ | Hồng cầu |
9 | Plasma | /ˈplæzmə/ | Huyết tương |
10 | Platelets | /ˈpleɪtlɪts/ | Tiểu cầu |
11 | Whole blood | /həʊl blʌd/ | Máu toàn phần |
12 | PROPPR Trial | /ˈprɒpə ˈtraɪəl/ | Nghiên cứu về tỷ lệ tối ưu của tiểu cầu và huyết tương |
13 | Coagulopathy | /koʊˌæɡjuˈlɒpəθi/ | Rối loạn đông máu |
14 | Acidosis | /ˌæsɪˈdoʊsɪs/ | Toan máu |
15 | Hypothermia | /ˌhaɪpəˈθɜːmiə/ | Hạ thân nhiệt |
16 | Permissive hypotension | /pəˈmɪsɪv ˌhaɪpəˈtenʃn/ | Hạ huyết áp cho phép |
17 | Massive transfusion protocols | /ˈmæsɪv trænsˈfjuːʒən ˈprəʊtəkɒlz/ | Quy trình truyền máu khối |
18 | Assessment of Blood Consumption (ABC) score | /əˈsesmənt əv blʌd kənˈsʌmpʃn skɔː/ | Điểm đánh giá tiêu thụ máu |
19 | Hyperfibrinolysis | /ˌhaɪpərfaɪbrɪˈnɒlɪsɪs/ | Tăng tiêu fibrin |
20 | Tranexamic acid (TXA) | /trænɪkˈsæmɪk ˈæsɪd/ | Acid tranexamic |
21 | CRASH-2 trial | /kræʃ tuː ˈtraɪəl/ | Thử nghiệm CRASH-2 |
22 | Crystalloid solutions | /ˈkrɪstəlɔɪd səˈluːʃnz/ | Dung dịch tinh thể |
23 | Colloid solutions | /ˈkɒlɔɪd səˈluːʃnz/ | Dung dịch keo |
24 | SAFE trial | /seɪf ˈtraɪəl/ | Thử nghiệm SAFE |
25 | Transfusion triggers | /trænsˈfjuːʒn ˈtrɪɡəz/ | Ngưỡng truyền máu |
26 | TRICC trial | /trɪk ˈtraɪəl/ | Thử nghiệm TRICC |
27 | Endpoints of resuscitation | /ˈendpɔɪnts əv riːˌsʌsɪˈteɪʃn/ | Điểm cuối của hồi sức |
28 | Lactic acid | /ˈlæktɪk ˈæsɪd/ | Acid lactic |
29 | Base deficit | /beɪs ˈdefɪsɪt/ | Thiếu hụt base |
30 | Thromboelastography (TEG) | /ˌθrɒmbəʊɪlæsˈtɒɡrəfi/ | Đàn hồi đồ cục máu đông |
31 | Rotational thromboelastometry (ROTEM) | /rəʊˈteɪʃənl ˌθrɒmbəʊɪlæsˈtɒmɪtri/ | Đo độ đàn hồi cục máu quay bằng máy ROTEM |
32 | ProTime (PT) | /ˈprəʊtaɪm/ | Thời gian prothrombin |
33 | Activated partial thromboplastin time (aPTT) | /ˈæktɪveɪtɪd ˈpɑːʃəl θrɒmˈbəplæstɪn taɪm/ | Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa |
34 | R-time | /ɑː taɪm/ | Thời gian R (thời gian phản ứng) |
35 | K-time | /keɪ taɪm/ | Thời gian K (thời gian đông máu) |
36 | Alpha angle | /ˈælfə ˈæŋɡl/ | Góc alpha |
37 | Maximum amplitude | /ˈmæksɪməm ˈæmplɪtjuːd/ | Biên độ tối đa |
38 | LY-30 | /el waɪ θɜːti/ | Chỉ số tiêu hủy cục máu đông sau 30 phút |
39 | Hypofibrinogenemia | /ˌhaɪpəʊfaɪbrɪnəʊdʒɪˈniːmiə/ | Giảm fibrinogen máu |
40 | Focused abdominal sonography for trauma (FAST) | /ˈfəʊkəst æbˈdɒmɪnl səˈnɒɡrəfi fə ˈtraʊmə/ | Siêu âm bụng tập trung cho chấn thương |
41 | Central venous pressure (CVP) | /ˈsentrəl ˈviːnəs ˈpreʃə/ | Áp lực tĩnh mạch trung tâm |
42 | Pulmonary artery (PA) catheter | /ˈpʌlmənəri ˈɑːtəri ˈkæθɪtə/ | Catheter động mạch phổi |
43 | Gastric tonometry | /ˈɡæstrɪk təˈnɒmɪtri/ | Đo pH niêm mạc dạ dày |
44 | Sublingual capnometry | /səbˈlɪŋɡwəl kæpˈnɒmɪtri/ | Đo CO2 dưới lưỡi |
45 | Esophageal Doppler | /ɪˈsɒfəɡiːəl ˈdɒplə/ | Doppler thực quản |
46 | Damage control | /ˈdæmɪdʒ kənˈtrəʊl/ | Kiểm soát tổn thương |
47 | Lethal triad | /ˈliːθəl ˈtraɪæd/ | Bộ ba tử thần |
48 | Venovenous bypass | /ˌviːnəʊˈviːnəs ˈbaɪpɑːs/ | Làm vòng tĩnh mạch-tĩnh mạch |
49 | Resuscitative endovascular balloon occlusion of the aorta (REBOA) | /riːˌsʌsɪˈteɪtɪv ˌendəʊˈvæskjʊlə bəˈluːn əˈkluːʒn əv ðə eɪˈɔːtə/ | Chèn bóng nội mạch bắc cầu động mạch chủ cho hồi sức |
50 | Intraabdominal hypertension (IAH) | /ˌɪntrəæbˈdɒmɪnl ˌhaɪpəˈtenʃn/ | Tăng áp lực trong ổ bụng |
51 | Abdominal compartment syndrome (ACS) | /æbˈdɒmɪnl kəmˈpɑːtmənt ˈsɪndrəʊm/ | Hội chứng khoang bụng |
52 | World Society on Abdominal Compartment Syndrome (WSACS) | /wɜːld səˈsaɪəti ɒn æbˈdɒmɪnl kəmˈpɑːtmənt ˈsɪndrəʊm/ | Hiệp hội Thế giới về Hội chứng Khoang Bụng |
53 | Primary ACS | /ˈpraɪməri eɪ siː es/ | ACS nguyên phát |
54 | Secondary ACS | /ˈsekəndəri eɪ siː es/ | ACS thứ phát |
55 | Recurrent ACS | /rɪˈkʌrənt eɪ siː es/ | ACS tái phát |
56 | Abdominal wall compliance | /æbˈdɒmɪnl wɔːl kəmˈplaɪəns/ | Sự tuân thủ của thành bụng |
57 | Decompressive laparotomy | /ˌdiːkəmˈpresɪv læpəˈrɒtəmi/ | Mở bụng giải áp |
58 | Temporary abdominal closure | /ˈtempərəri æbˈdɒmɪnl ˈkləʊʒə/ | Đóng bụng tạm thời |
59 | Cerebral perfusion pressure (CPP) | /səˈriːbrəl pəˈfjuːʒn ˈpreʃə/ | Áp lực tưới máu não |
60 | Intracranial pressure (ICP) | /ˌɪntrəˈkreɪniəl ˈpreʃə/ | Áp lực nội sọ |
61 | Glasgow Coma score (GCS) | /ˈɡlɑːzɡəʊ ˈkəʊmə skɔː/ | Điểm hôn mê Glasgow |
62 | Cerebral cortical oxygenation | /səˈriːbrəl ˈkɔːtɪkl ˌɒksɪdʒəˈneɪʃn/ | Oxy hóa vỏ não |
63 | Brain Trauma Foundation | /breɪn ˈtraʊmə faʊnˈdeɪʃn/ | Quỹ Chấn thương Não |
64 | Early posttraumatic seizures (PTS) | /ˈɜːli ˌpəʊsttrəʊˈmætɪk ˈsiːʒəz/ | Co giật sau chấn thương sớm |
65 | Venous thromboembolism (VTE) | /ˈviːnəs ˌθrɒmbəʊˈembəlɪzm/ | Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch |
66 | Deep venous thrombosis (DVT) | /diːp ˈviːnəs θrɒmˈbəʊsɪs/ | Huyết khối tĩnh mạch sâu |
67 | Pulmonary embolism (PE) | /ˈpʌlmənəri ˈembəlɪzm/ | Thuyên tắc phổi |
68 | Sequential compressive devices (SCD) | /sɪˈkwenʃl kəmˈpresɪv dɪˈvaɪsɪz/ | Thiết bị nén tuần tự |
69 | Low-dose unfractionated subcutaneous heparin (SQH) | /ləʊ dəʊz ʌnˈfrækʃəneɪtɪd ˌsʌbkjʊˈteɪniəs ˈhepərɪn/ | Heparin không phân đoạn liều thấp dưới da |
70 | Low-molecular-weight heparin (LMWH) | /ləʊ məˈlekjʊlə weɪt ˈhepərɪn/ | Heparin trọng lượng phân tử thấp |
71 | Eastern Association for the Surgery of Trauma (EAST) | /ˈiːstən əˌsəʊsiˈeɪʃn fə ðə ˈsɜːdʒəri əv ˈtraʊmə/ | Hiệp hội Phẫu thuật Chấn thương Đông |
72 | American College of Chest Physicians (ACCP) | /əˈmerɪkən ˈkɒlɪdʒ əv tʃest fɪˈzɪʃənz/ | Trường Cao đẳng Bác sĩ Lồng ngực Hoa Kỳ |
73 | Inferior vena cava (IVC) filter | /ɪnˈfɪəriə ˈviːnə ˈkɑːvə ˈfɪltə/ | Lọc tĩnh mạch chủ dưới |
74 | Stress ulcer prophylaxis | /stres ˈʌlsə ˌprɒfɪˈlæksɪs/ | Dự phòng loét do stress |
75 | International Normalized Ratio (INR) | /ˌɪntəˈnæʃnəl ˈnɔːməlaɪzd ˈreɪʃiəʊ/ | Tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế |
76 | Partial thromboplastin time (PTT) | /ˈpɑːʃəl θrɒmˈbəplæstɪn taɪm/ | Thời gian thromboplastin từng phần |
77 | Sucralfate | /sjuːˈkrælfeit/ | Sucralfate |
78 | Histamine-2 receptor antagonists (H2RAs) | /ˈhɪstəmiːn tuː rɪˈseptər ænˈtæɡənɪsts/ | Thuốc đối kháng thụ thể histamine-2 |
79 | Proton-pump inhibitors (PPIs) | /ˈprəʊtɒn pʌmp ɪnˈhɪbɪtəz/ | Thuốc ức chế bơm proton |
80 | Society of Critical Care Medicine | /səˈsaɪəti əv ˈkrɪtɪkl keə ˈmedɪsɪn/ | Hiệp hội Y học Chăm sóc Tích cực |
81 | American Society for Parenteral and Enteral Nutrition (A.S.P.E.N.) | /əˈmerɪkən səˈsaɪəti fə pəˈrentərəl ənd ˈentərəl njuːˈtrɪʃn/ | Hiệp hội Hoa Kỳ về Dinh dưỡng Đường tĩnh mạch và Đường ruột |
82 | Enteral nutrition | /ˈentərəl njuːˈtrɪʃn/ | Dinh dưỡng đường ruột |
83 | Parenteral nutrition | /pəˈrentərəl njuːˈtrɪʃn/ | Dinh dưỡng đường tĩnh mạch |
84 | Intragastric feeding | /ˌɪntrəˈɡæstrɪk ˈfiːdɪŋ/ | Nuôi ăn qua đường dạ dày |
85 | Postpyloric feeding | /pəʊstpaɪˈlɒrɪk ˈfiːdɪŋ/ | Nuôi ăn qua đường hậu môn vị |
86 | Arginine | /ˈɑːdʒəniːn/ | Arginine |
87 | Glutamine | /ˈɡluːtəmiːn/ | Glutamine |
88 | Fish oils | /fɪʃ ɔɪlz/ | Dầu cá |
89 | Glycemic control | /ɡlaɪˈsiːmɪk kənˈtrəʊl/ | Kiểm soát đường huyết |
90 | NICE-SUGAR trial | /naɪs ˈʃʊɡə ˈtraɪəl/ | Thử nghiệm NICE-SUGAR |
91 | Intensive insulin therapy | /ɪnˈtensɪv ˈɪnsjʊlɪn ˈθerəpi/ | Liệu pháp insulin tích cực |
92 | Conventional glucose control | /kənˈvenʃənl ˈɡluːkəʊz kənˈtrəʊl/ | Kiểm soát glucose thông thường |
93 | Aspiration pneumonitis | /ˌæspəˈreɪʃn ˌnjuːməˈnaɪtɪs/ | Viêm phổi hít |
94 | Aspiration pneumonia | /ˌæspəˈreɪʃn njuːˈməʊniə/ | Viêm phổi do hít |
95 | Ventilator-associated pneumonia (VAP) | /ˈventɪleɪtər əˈsəʊʃieɪtɪd njuːˈməʊniə/ | Viêm phổi liên quan đến thở máy |
96 | Ventilator bundles | /ˈventɪleɪtə ˈbʌndlz/ | Gói biện pháp thở máy |
97 | Catheter-related blood stream infections | /ˈkæθɪtə rɪˈleɪtɪd blʌd striːm ɪnˈfekʃnz/ | Nhiễm trùng máu liên quan đến Catheter |
98 | Catheter-associated urinary tract infections | /ˈkæθɪtə əˈsəʊʃieɪtɪd ˈjʊərɪnəri trækt ɪnˈfekʃnz/ | Nhiễm trùng đường tiểu liên quan đến Catheter |
99 | American Society of Anesthesiologists Acute Pain Task Force | /əˈmerɪkən səˈsaɪəti əv ˌænəsˈθiːziɒlədʒɪsts əˈkjuːt peɪn tɑːsk fɔːs/ | Lực lượng Đặc nhiệm Đau Cấp của Hiệp hội Bác sĩ Gây mê Hoa Kỳ |
100 | Multimodal pain management | /ˌmʌltiˈməʊdl peɪn ˈmænɪdʒmənt/ | Quản lý đau đa mô thức |
101 | Neuraxial/regional blockade | /njʊˈræksiəl ˈriːdʒənl blɒˈkeɪd/ | Phong bế ngoài màng cứng/vùng |
102 | Local anesthetics | /ˈləʊkl ˌænəsˈθetɪks/ | Thuốc tê cục bộ |
103 | Cyclooxygenase (COX) inhibitors | /ˌsaɪkləʊˈɒksɪdʒəneɪz ɪnˈhɪbɪtəz/ | Chất ức chế cyclooxygenase |
104 | Nonsteroidal anti-inflammatory drugs (NSAIDs) | /nɒnˌstɪərɔɪdl ˌæntiɪnˈflæmətri drʌɡz/ | Thuốc chống viêm không steroid |
105 | Acetaminophen | /əˌsiːtəˈmɪnəfən/ | Acetaminophen (Paracetamol) |
106 | Epidural analgesia | /ˌepɪˈdjʊərəl ænəlˈdʒiːziə/ | Giảm đau ngoài màng cứng |
107 | Patient-controlled analgesia | /ˈpeɪʃnt kənˈtrəʊld ænəlˈdʒiːziə/ | Giảm đau do người bệnh kiểm soát |
108 | Rib fractures | /rɪb ˈfræktʃəz/ | Gãy xương sườn |
109 | Flail chest | /fleɪl tʃest/ | Mảng sườn |
110 | Operative fixation | /ˈɒpərətɪv fɪkˈseɪʃn/ | Cố định phẫu thuật |
111 | Aortic zones | /eɪˈɔːtɪk zəʊnz/ | Các vùng động mạch chủ |
112 | Zone I | /zəʊn wʌn/ | Vùng I (từ động mạch dưới đòn trái đến động mạch thân tạng) |
113 | Zone II | /zəʊn tuː/ | Vùng II (từ động mạch thân tạng đến động mạch thận thấp nhất) |
114 | Zone III | /zəʊn θriː/ | Vùng III (từ động mạch thận thấp nhất đến chỗ chia đôi động mạch chủ) |
115 | Junctional hemorrhage | /ˈdʒʌŋkʃənl ˈhemərɪdʒ/ | Chảy máu vùng nối |
116 | Tourniquet | /ˈtʊənɪkeɪ/ | Garô |
117 | Femoral artery | /ˈfemərl ˈɑːtəri/ | Động mạch đùi |
118 | Percutaneous approach | /pəˈkjuːteɪniəs əˈprəʊtʃ/ | Tiếp cận qua da |
119 | Surgical cut-down | /ˈsɜːdʒɪkl kʌt daʊn/ | Mở bằng phẫu thuật |
120 | Diaphragmatic hiatus | /ˌdaɪəfræɡˈmætɪk haɪˈeɪtəs/ | Lỗ hoành |
121 | Aortic bifurcation | /eɪˈɔːtɪk ˌbaɪfəˈkeɪʃn/ | Chỗ chia đôi động mạch chủ |
122 | Blood components | /blʌd kəmˈpəʊnənts/ | Các thành phần máu |
123 | Hypocalcemia | /ˌhaɪpəʊkælˈsiːmiə/ | Hạ canxi máu |
124 | Bladder pressure | /ˈblædə ˈpreʃə/ | Áp lực bàng quang |
125 | Midaxillary line | /mɪdˈæksɪləri laɪn/ | Đường nách giữa |
126 | Neuromuscular blockade | /ˌnjʊərəʊˈmʌskjʊlə blɒˈkeɪd/ | Giãn cơ |
127 | Fasciotomies | /ˌfæʃiˈɒtəmiz/ | Phẫu thuật mở cân |
128 | Cerebral blood flow | /səˈriːbrəl blʌd fləʊ/ | Lưu lượng máu não |
129 | Cerebrospinal fluid (CSF) | /ˌserəbrəʊˈspaɪnl ˈfluːɪd/ | Dịch não tủy |
130 | Mean arterial pressure (MAP) | /miːn ɑːˈtɪəriəl ˈpreʃə/ | Huyết áp động mạch trung bình |
131 | Mannitol | /ˈmænɪtɒl/ | Mannitol (thuốc lợi tiểu thẩm thấu) |
132 | Deliberate hyperventilation | /dɪˈlɪbərət ˌhaɪpəventɪˈleɪʃn/ | Tăng thông khí chủ đích |
133 | Michigan Trauma Quality Improvement Project (MTQIP) | /ˈmɪʃɪɡən ˈtraʊmə ˈkwɒlɪti ɪmˈpruːvmənt ˈprɒdʒekt/ | Dự án Cải thiện Chất lượng Chấn thương Michigan |
134 | Traumatic brain injury (TBI) | /trɔːˈmætɪk breɪn ˈɪndʒəri/ | Chấn thương sọ não |
135 | Phenytoin | /ˈfenɪtɔɪn/ | Phenytoin (thuốc chống co giật) |
136 | Levetiracetam | /ˌlevɪˈtaɪrəsitæm/ | Levetiracetam (thuốc chống co giật) |
137 | Exsanguination | /ɪkˌsæŋɡwɪˈneɪʃn/ | Mất máu ồ ạt |
138 | Ventriculostomy catheter | /venˌtrɪkjʊˈlɒstəmi ˈkæθɪtə/ | Ống dẫn lưu não thất |
139 | Hypertonic saline | /ˌhaɪpəˈtɒnɪk ˈseɪlaɪn/ | Dung dịch muối ưu trương |
140 | Traumatic mass lesions | /trɔːˈmætɪk mæs ˈliːʒnz/ | Tổn thương khối do chấn thương |
141 | Basal cisterns | /ˈbeɪsl ˈsɪstənz/ | Bể đáy |
142 | Vasoactive medications | /ˌveɪzəʊˈæktɪv ˌmedɪˈkeɪʃnz/ | Thuốc vận mạch |
143 | Vasopressor | /ˌveɪzəʊˈpresə/ | Thuốc co mạch |
144 | Open fractures | /ˈəʊpən ˈfræktʃəz/ | Gãy xương hở |
145 | Brain tissue hypoxia | /breɪn ˈtɪʃuː haɪˈpɒksiə/ | Thiếu oxy mô não |
146 | Severe head injury | /sɪˈvɪə hed ˈɪndʒəri/ | Chấn thương đầu nặng |
147 | Compressed basal cisterns | /kəmˈprest ˈbeɪsl ˈsɪstənz/ | Xẹp bể đáy |
148 | Motor posturing | /ˈməʊtə ˈpɒstʃərɪŋ/ | Co cứng vận động |
149 | Weight-adjusted dosing | /weɪt əˈdʒʌstɪd ˈdəʊsɪŋ/ | Liều lượng điều chỉnh theo cân nặng |
150 | Nutritional risk | /njuːˈtrɪʃənl rɪsk/ | Nguy cơ dinh dưỡng |
151 | Catabolic state | /kəˈtæbɒlɪk steɪt/ | Trạng thái dị hóa |
152 | Gastric residual volumes | /ˈɡæstrɪk rɪˈzɪdjʊəl ˈvɒljuːmz/ | Thể tích dư dạ dày |
153 | Enhanced enteral nutrition formulas | /ɪnˈhɑːnst ˈentərəl njuːˈtrɪʃn ˈfɔːmjʊləz/ | Công thức dinh dưỡng đường ruột tăng cường |
154 | Unfractionated heparin (UFH) | /ʌnˈfrækʃəneɪtɪd ˈhepərɪn/ | Heparin không phân đoạn |
155 | Renal insufficiency | /ˈriːnl ˌɪnsəˈfɪʃnsi/ | Suy thận |
156 | Renal failure | /ˈriːnl ˈfeɪljə/ | Suy thận |
157 | Epidural analgesia catheter | /ˌepɪˈdjʊərəl ænəlˈdʒiːziə ˈkæθɪtə/ | Catheter giảm đau ngoài màng cứng |
158 | Splints | /splɪnts/ | Nẹp |
159 | External fixators | /ɪkˈstɜːnl ˈfɪkseɪtəz/ | Khung cố định ngoài |
160 | Long bone fracture | /lɒŋ bəʊn ˈfræktʃə/ | Gãy xương dài |
161 | Spinal fracture | /ˈspaɪnl ˈfræktʃə/ | Gãy xương cột sống |
162 | Lower extremity venous injuries | /ˈləʊə ɪkˈstremɪti ˈviːnəs ˈɪndʒəriz/ | Tổn thương tĩnh mạch chi dưới |
163 | Multiple rib fractures | /ˈmʌltɪpl rɪb ˈfræktʃəz/ | Gãy nhiều xương sườn |
164 | Rapid-sequence intubation | /ˈræpɪd ˈsiːkwəns ˌɪntjʊˈbeɪʃn/ | Đặt nội khí quản nhanh |
165 | Thoracic and lumbar spine clearance | /θəˈræsɪk ənd ˈlʌmbə spaɪn ˈklɪərəns/ | Loại trừ chấn thương cột sống ngực và thắt lưng |
166 | Reverse Trendelenburg position | /rɪˈvɜːs ˈtrendələnbɜːɡ pəˈzɪʃn/ | Tư thế đầu thấp ngược lại |
167 | Hollow viscus injury | /ˈhɒləʊ ˈvɪskəs ˈɪndʒəri/ | Tổn thương tạng rỗng |
168 | Gastroparesis | /ˌɡæstrəʊpəˈriːsɪs/ | Liệt dạ dày |
169 | Penetrating trauma | /ˈpenɪtreɪtɪŋ ˈtraʊmə/ | Chấn thương xuyên thấu |
170 | Blunt trauma | /blʌnt ˈtraʊmə/ | Chấn thương đụng dập |
171 | Visceral perfusion | /ˈvɪsərəl pəˈfjuːʒn/ | Tưới máu tạng |
172 | Computed tomography (CT) | /kəmˈpjuːtɪd təˈmɒɡrəfi/ | Chụp cắt lớp vi tính |
173 | Head-injured patients | /hed ˈɪndʒəd ˈpeɪʃnts/ | Người bệnh bị chấn thương đầu |
174 | Occult hypoperfusion | /ˈɒkʌlt ˌhaɪpəʊpəˈfjuːʒn/ | Giảm tưới máu tiềm ẩn |
175 | Devitalized tissue | /diːˈvaɪtəlaɪzd ˈtɪʃuː/ | Mô hoại tử |
176 | Operative intervention | /ˈɒpərətɪv ˌɪntəˈvenʃn/ | Can thiệp phẫu thuật |
177 | Interventional radiology | /ˌɪntəˈvenʃənl ˌreɪdiˈɒlədʒi/ | Can thiệp mạch |
178 | Angiography | /ˌændʒiˈɒɡrəfi/ | Chụp mạch |
179 | Embolization | /ˌembəlaɪˈzeɪʃn/ | Nút mạch |
180 | Hepatic lacerations | /hɪˈpætɪk ˌlæsəˈreɪʃnz/ | Vết rách gan |
181 | Pelvic fractures | /ˈpelvɪk ˈfræktʃəz/ | Gãy xương chậu |
182 | Retroperitoneal injury | /ˌretrəʊperɪtəˈniːəl ˈɪndʒəri/ | Tổn thương sau phúc mạc |
183 | Suprarenal inferior vena cava | /ˌsuːprəˈriːnl ɪnˈfɪəriə ˈviːnə ˈkɑːvə/ | Tĩnh mạch chủ dưới trên thận |
184 | Primary closure | /ˈpraɪməri ˈkləʊʒə/ | Đóng nguyên phát |
185 | Splenectomy | /splɪˈnektəmi/ | Cắt lách |
186 | Nephrectomy | /nɪˈfrektəmi/ | Cắt thận |
187 | Abdominal fascia | /æbˈdɒmɪnl ˈfeɪʃə/ | Cân mạc bụng |
188 | Skin graft closure | /skɪn ɡrɑːft ˈkləʊʒə/ | Đóng bụng bằng ghép da |
189 | Massive gastrointestinal contamination | /ˈmæsɪv ˌɡæstrəʊɪnˈtestɪnl kənˌtæmɪˈneɪʃn/ | Nhiễm bẩn đường tiêu hóa lớn |
190 | Physiologic “capture” | /ˌfɪziəˈlɒdʒɪk ˈkæptʃə/ | Sự “bắt giữ” sinh lý |
191 | Intravenous fluid warmer | /ˌɪntrəˈviːnəs ˈfluːɪd ˈwɔːmə/ | Máy làm ấm dịch truyền tĩnh mạch |
192 | Ventilator circuit | /ˈventɪleɪtə ˈsɜːkɪt/ | Mạch thông khí |
193 | Warming pads | /ˈwɔːmɪŋ pædz/ | Đệm sưởi |
194 | Accelerated fibrinolysis | /əkˈseləreɪtɪd ˌfaɪbrɪˈnɒlɪsɪs/ | Tăng tiêu fibrin |
195 | Hemodilution | /ˌhiːməʊdaɪˈluːʃn/ | Pha loãng máu |
196 | Consumption of platelets | /kənˈsʌmpʃn əv ˈpleɪtlɪts/ | Tiêu thụ tiểu cầu |
197 | Clotting factors | /ˈklɒtɪŋ ˈfæktəz/ | Yếu tố đông máu |
198 | Myocardial irritability | /maɪəˈkɑːdiəl ˌɪrɪtəˈbɪlɪti/ | Kích thích cơ tim |
199 | Hemostasis | /ˌhiːməʊˈsteɪsɪs/ | Cầm máu |
200 | Exsanguination | /ɪkˌsæŋɡwɪˈneɪʃn/ | Tử vong do mất máu |