Trang chủSÁCH DỊCH TIẾNG VIỆTSản phụ khoa Căn bản

[SÁCH DỊCH] Sản phụ khoa Căn bản. Chương 9. Bệnh lý nội khoa trong thai kỳ

Chẩn đoán phân biệt các triệu chứng thường gặp, ấn bản thứ 7. Chương 2. Đau bụng ở trẻ em
Phác đồ chẩn đoán và điều trị Hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi
Tổng quan lâm sàng: Nhiễm Chlamydia pneumoniae

(SÁCH DỊCH) Sản Phụ khoa Căn bản – Essential Obstetrics and Gynaecology
Tác giả: Ian Symonds & Sabaratnam Arulkumaran – (C) NXB Elsevier
Ths.Bs. Lê Đình Sáng (Dịch và chú giải)


Chương 9. Bệnh lý Nội khoa trong Thai kỳ
Maternal medicine
Suzanne V.F. Wallace; David James
Essential Obstetrics and Gynaecology, Chapter 9, 124-148


MỤC TIÊU HỌC TẬP

Sau khi học xong chương này, bạn sẽ có thể:

Tiêu chí kiến thức

Mô tả nguyên nhân, yếu tố nguy cơ, rủi ro và cách xử trí của:

  • Thiếu máu trong thai kỳ
  • Đái tháo đường thai kỳ
  • Nhiễm trùng trong thai kỳ
  • Bệnh lý huyết khối thuyên tắc mạch trong thai kỳ
  • Bệnh lý gan

So sánh biểu hiện lâm sàng và cách xử trí các bệnh lý nội khoa có từ trước trong thai kỳ, bao gồm:

  • Đái tháo đường
  • Béo phì
  • Tăng đông
  • Động kinh
  • Bệnh lý tuyến giáp
  • Bệnh lý tim mạch
  • Bệnh lý hô hấp
  • Bệnh lý thận
  • Bệnh huyết sắc tố

Thảo luận vai trò của tư vấn tiền thụ thai cho phụ nữ có bệnh lý từ trước cũng như các nguy cơ và những điều chỉnh cần thiết để tiếp tục điều trị bằng thuốc trong thai kỳ.

Năng lực lâm sàng

Giải thích cho thai phụ về nguyên nhân và lập kế hoạch xử trí các triệu chứng thường gặp trong thai kỳ, bao gồm:

  • Đau bụng
  • Ợ nóng
  • Táo bón
  • Đau lưng
  • Ngất
  • Giãn tĩnh mạch
  • Hội chứng ống cổ tay

Giới thiệu

Bệnh lý nội khoa trong thai kỳ bao gồm tất cả các bệnh lý mà một phụ nữ có thể mắc phải khi mang thai. Một số bệnh có thể có từ trước khi mang thai và một số khác có thể phát triển trong quá trình mang thai. Hiện nay tại Vương quốc Anh, với những tiến bộ trong các lĩnh vực khác của chăm sóc sản khoa, hầu hết các ca tử vong mẹ hiện nay là do các bệnh lý nội khoa. Trong ấn bản gần đây nhất của Báo cáo Điều tra Kín về Tử vong và Bệnh tật của Mẹ ở Vương quốc Anh và Ireland giai đoạn 2013-2015, huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch là nguyên nhân gây tử vong mẹ với tỷ lệ 1,13 trên 100.000 ca sinh, trong khi bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong mẹ với tỷ lệ 2,34 trên 100.000 ca sinh.

Ngày càng có nhiều phụ nữ mang thai mắc các bệnh lý nội khoa. Những phụ nữ có bệnh lý nội khoa nghiêm trọng từ trước mà trong quá khứ có thể dẫn đến vô sinh tự nguyện hoặc không tự nguyện (ví dụ, xơ nang) hiện đang mang thai với số lượng ngày càng tăng. Ngoài ra, ngày càng có nhiều phụ nữ mang thai ở độ tuổi lớn hơn và gặp nhiều vấn đề mắc phải hơn như béo phì và tăng huyết áp.

Dù một phụ nữ đã được biết là có bệnh lý nội khoa từ trước khi mang thai hay phát triển bệnh trong thai kỳ, chìa khóa để xử trí thành công là có một khuôn khổ để đảm bảo rằng tất cả các tác động của bệnh lý đều được xem xét (Hình 9.1). Điều này cho phép lập kế hoạch mang thai một cách chặt chẽ dù bệnh lý đó là phổ biến hay hiếm gặp.

Làm việc nhóm đa chuyên khoa và đa ngành nghề cũng là những yếu tố thiết yếu trong việc chăm sóc những phụ nữ này.

Các triệu chứng thường gặp trong thai kỳ

Các triệu chứng thường gặp trong thai kỳ, theo định nghĩa, không gây ra các vấn đề y tế nghiêm trọng. Tuy nhiên, các triệu chứng này thường không được xem là nhỏ nhặt đối với những phụ nữ bị ảnh hưởng và có thể tác động đáng kể đến chất lượng cuộc sống của họ khi mang thai. Ngoài ra, nhiều triệu chứng của các tình trạng thông thường trong thai kỳ cũng giống như các triệu dung của các bệnh lý cần được loại trừ. Các triệu chứng thường liên quan đến sự thích nghi sinh lý của cơ thể với thai kỳ, và phụ nữ nên được trấn an (sau khi đã loại trừ bệnh lý) rằng những triệu chứng này là những thay đổi bình thường của thai kỳ.

Hình 9.1 Khuôn khổ cho các rối loạn nội khoa trong thai kỳ. 

Đau bụng

Đau hoặc khó chịu ở bụng là tình trạng phổ biến trong thai kỳ và thường chỉ là tạm thời và mang tính sinh lý. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải xác định các trường hợp có thể có nguyên nhân bệnh lý.

Các nguyên nhân sinh lý bao gồm:

  • Sự căng giãn của các dây chằng và cơ bụng
  • Cơn gò Braxton Hicks (‘cơn gò tập’)
  • Áp lực của tử cung mang thai lên các cơ quan trong ổ bụng
  • Táo bón

Điều quan trọng là phải phân biệt đau bụng sinh lý với các nguyên nhân bệnh lý ở những phụ nữ bị đau dữ dội, không điển hình hoặc tái phát. Các nguyên nhân này bao gồm:

  • Các vấn đề trong thai kỳ sớm như thai ngoài tử cung và sẩy thai
  • Các nguyên nhân phụ khoa như xoắn buồng trứng
  • Nhiễm trùng đường tiết niệu
  • Các nguyên nhân ngoại khoa như viêm ruột thừa và viêm tụy
  • Các nguyên nhân sản khoa muộn hơn như nhau bong non và chuyển dạ

Các nguyên nhân xã hội, đặc biệt là bạo lực gia đình, cần được xem xét ở những phụ nữ có các đợt đau bụng tái phát mà đã loại trừ bệnh lý thực thể.

Sau khi đã loại trừ nguyên nhân bệnh lý, việc trấn an thường là một lựa chọn xử trí thành công và hiếm khi cần dùng thuốc giảm đau.

Ợ nóng

Trào ngược dạ dày-thực quản có nhiều khả năng xảy ra trong thai kỳ do dạ dày chậm làm rỗng, giảm áp lực cơ thắt thực quản dưới và tăng áp lực trong dạ dày. Tình trạng này ảnh hưởng đến 80% phụ nữ mang thai, đặc biệt là trong Ba tháng cuối. Các chẩn đoán phân biệt là:

  • Các nguyên nhân gây đau ngực khác như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim và đau cơ
  • Các nguyên nhân gây đau bụng trên có thể giống trào ngược, ví dụ, tiền sản giật, gan nhiễm mỡ cấp tính trong thai kỳ (AFLP) và sỏi mật

Xử trí bảo tồn bao gồm tư vấn chế độ ăn uống để tránh thực phẩm cay và axit và tránh ăn ngay trước khi đi ngủ. Các triệu chứng có thể cải thiện bằng cách thay đổi tư thế ngủ sang tư thế thẳng hơn. Nếu các biện pháp bảo tồn không thành công, thuốc kháng axit an toàn trong thai kỳ và có thể được sử dụng bất cứ lúc nào. Thuốc chẹn thụ thể histamin, như ranitidine, và thuốc ức chế bơm proton có hồ sơ an toàn tốt trong thai kỳ và có thể được sử dụng nếu chỉ dùng thuốc kháng axit không đủ để cải thiện triệu chứng.

Táo bón

Táo bón được cho là phổ biến hơn trong thai kỳ do cả nồng độ progesterone tăng cao làm chậm nhu động ruột kết và áp lực của tử cung lên trực tràng. Tình trạng này đặc biệt phổ biến trong ba tháng đầu. Nó có thể trở nên trầm trọng hơn do bổ sung sắt đường uống, thường được dùng trong thai kỳ.

Phụ nữ nên được khuyên tăng lượng chất lỏng và chất xơ trong chế độ ăn uống. Hầu hết các loại thuốc nhuận tràng thẩm thấu và kích thích đều an toàn trong thai kỳ và có thể được xem xét nếu xử trí bảo tồn không thành công. Hiếm khi, táo bón nặng có thể là nguyên nhân gây ra ngôi thai không ổn định vào cuối thai kỳ bằng cách ngăn cản đầu thai nhi lọt vào khung chậu.

Đau lưng

Đau lưng là một phàn nàn rất phổ biến trong thai kỳ, đặc biệt khi thai kỳ tiến triển. Nguyên nhân phổ biến nhất là sự kết hợp của áp lực từ tử cung mang thai gây ra tình trạng ưỡn cột sống thắt lưng quá mức và tác động của nội tiết tố lên các mô mềm nâng đỡ. Các chẩn đoán phân biệt bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm bể thận và chuyển dạ sớm.

Khám vật lý trị liệu có thể giúp bằng cách tư vấn về tư thế và các bài tập kéo giãn và vận động phù hợp. Có thể cần dùng các loại thuốc giảm đau đơn giản. Trong khi các công thức paracetamol và codeine an toàn trong thai kỳ, nên tránh dùng aspirin và thuốc chống viêm không steroid. Một nhược điểm của codeine là nó có thể gây táo bón.

Ngất

Giãn mạch sinh lý do tác động của progesterone lên cơ trơn mạch máu gây ra sự ứ đọng máu ở các vùng thấp, gây hạ huyết áp tư thế có thể dẫn đến ngất. Vào cuối thai kỳ, có thể xảy ra tình trạng chèn ép tĩnh mạch chủ dưới do tử cung mang thai (từ khoảng 20 tuần tuổi thai), làm giảm thêm lượng máu tĩnh mạch trở về tim và gây hạ huyết áp. Mặc dù ngất trong thai kỳ thường là lành tính, nếu tái phát, cần loại trừ thiếu máu, hạ đường huyết, mất nước và rối loạn nhịp tim.

Phụ nữ nên được khuyên ngồi một lúc trước khi đứng dậy từ tư thế nằm và tránh đứng lâu; vào cuối thai kỳ, nên tránh nằm ngửa để giảm chèn ép tĩnh mạch chủ và hạ huyết áp tư thế nằm ngửa. Cần tránh mất nước.

Giãn tĩnh mạch

Giãn tĩnh mạch ở chân hoặc âm hộ có thể trở nên tồi tệ hơn hoặc xuất hiện lần đầu do sự kết hợp của áp lực lên các tĩnh mạch chậu từ tử cung mang thai làm giảm lượng máu tĩnh mạch trở về từ các tĩnh mạch chi dưới và tác động của progesterone làm giãn cơ trơn mạch máu. Sự xuất hiện của chúng thường là đủ để chẩn đoán nhưng nếu đau thì nên loại trừ viêm tắc tĩnh mạch và huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT).

Nâng cao chân khi ngồi hoặc nằm có thể cải thiện triệu chứng. Việc sử dụng vớ nén có thể vừa làm giảm triệu chứng vừa giảm nguy cơ huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch do ứ trệ trong các tĩnh mạch bị giãn. Nếu có giãn tĩnh mạch nghiêm trọng và có các yếu tố nguy cơ khác đối với huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch, có thể cần xem xét dự phòng bằng heparin.

Hội chứng ống cổ tay

Ứ dịch xảy ra trong thai kỳ do tăng tính thấm mao mạch. Điều này có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm hội chứng ống cổ tay thông qua việc chèn ép dây thần kinh giữa khi nó đi qua ống cổ tay.

Nẹp cổ tay giúp giảm gập cổ tay thường là phương pháp điều trị chính trong đa số các trường hợp. Trong các trường hợp nặng, đôi khi cần tiêm steroid và có thể thực hiện trong thai kỳ. Phẫu thuật giải phóng dây chằng ống cổ tay hiếm khi cần thiết đối với hội chứng ống cổ tay liên quan đến thai kỳ, vì hầu hết sẽ tự khỏi sau khi sinh.

Rối loạn chức năng khớp mu (Rối loạn chức năng khớp mu chậu, SPD)

Nồng độ relaxin tăng cao trong thai kỳ làm tăng tính di động của khớp để cho phép khung chậu giãn nở cho việc sinh nở. Tuy nhiên, ở một số phụ nữ, tác động này có thể bị phóng đại và gây khó chịu ở khớp mu, hông hoặc các điểm khác quanh khung chậu; điều này thường trở nên tồi tệ hơn khi tuổi thai tăng. Phụ nữ thường mô tả cơn đau đặc trưng khi đi bộ hoặc đứng với cảm giác đau khi ấn vào vành chậu. Cần loại trừ nhiễm trùng đường tiết niệu khi có đau ở phía trước.

Các nhà vật lý trị liệu sẽ tư vấn về các bài tập để cải thiện sự ổn định, các kỹ thuật để giảm thiểu triệu chứng trong các hoạt động hàng ngày và các tư thế khi sinh. Đai hỗ trợ khung chậu có thể cải thiện triệu chứng. Giống như đau lưng, có thể sử dụng các loại thuốc giảm đau đơn giản. Vấn đề thường tự khỏi sau khi mang thai.

Các vấn đề nội khoa phát sinh trong thai kỳ


Thiếu máu

Thiếu máu thường xảy ra trong thai kỳ. Mặc dù ở nhiều nước phát triển, tình trạng này ở mức độ nhẹ và được điều trị nhanh chóng và dễ dàng, dẫn đến biến chứng tối thiểu, nhưng ở một số quốc gia, nó lại ở mức độ nặng và là một yếu tố góp phần chính gây tử vong mẹ.

Nguyên nhân

Thai kỳ gây ra nhiều thay đổi trong hệ huyết học, bao gồm sự gia tăng cả thể tích huyết tương và khối lượng hồng cầu; sự gia tăng thể tích huyết tương lớn hơn sự gia tăng khối lượng hồng cầu, dẫn đến tình trạng ‘thiếu máu sinh lý’ thường xảy ra. Nhu cầu sắt và folate tăng lên để đáp ứng cả sự gia tăng khối lượng hồng cầu và nhu cầu của thai nhi, điều này không phải lúc nào cũng được đáp ứng bởi chế độ ăn của mẹ. Do đó, thiếu máu do thiếu sắt là một tình trạng phổ biến gặp phải trong thai kỳ, đặc biệt là trong Ba tháng cuối. Bảng 9.1 cho thấy sự thay đổi của hemoglobin và các chỉ số hồng cầu trong thai kỳ bình thường.

Bảng 9.1 Hemoglobin và các chỉ số hồng cầu (trung bình và khoảng tham chiếu tính toán từ phân vị thứ 2,5 đến 97,5)

Chỉ số hồng cầu Tuổi thai
18 tuần 32 tuần 39 tuần 8 tuần hậu sản
Hemoglobin (Hb) g/L 119 (104-135) 119 (106-133) 125 (109-142) 133 (119-148)
Số lượng hồng cầu x10¹²/L 3,93 (3,43-4,49) 3,86 (3,38-4,43) 4,05 (3,54-4,64) 4,44 (3,93-5,00)
Thể tích trung bình hồng cầu (MCV) fL 89 (83-96) 91 (85-97) 91 (84-98) 88 (82-94)
Lượng hemoglobin trung bình hồng cầu (MCH) pg 30 (27-33) 30 (28-33) 30 (28-33) 30 (27-32)
Nồng độ hemoglobin trung bình hồng cầu (MCHC) g/dL 34 (33-36) 34 (33-36) 34 (33-36) 34 (33-36)
Hematocrit 0,35 (0,31-0,39) 0,35 (0,31-0,40) 0,37 (0,32-0,42) 0,39 (0,35-0,44)

Tái bản với sự cho phép của Shepard, MJ, Richards VA, Berkowitz RL, và cộng sự. (1982) An evaluation of two equations for predicting fetal weight by ultrasound. Am J Obstet Gynecol 142:47-54. © 1982 Elsevier.

Yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ trước khi mang thai là những yếu tố liên quan đến thiếu máu mạn tính:

  • Thiếu sắt thứ phát do chế độ ăn uống kém
  • Rong kinh
  • Khoảng cách giữa các lần mang thai ngắn
  • Sự hiện diện của các tình trạng thiếu máu, như bệnh hồng cầu hình liềm, thalassemia và thiếu máu tan máu

Các yếu tố nguy cơ trong thai kỳ bao gồm đa thai do nhu cầu sắt tăng trong các trường hợp đa thai.

Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán

Thiếu máu thường được xác định là kết quả của các phép đo công thức máu định kỳ. Một số phụ nữ sẽ có các triệu chứng như khó thở và mệt mỏi. Có sự thay đổi về mức hemoglobin bình thường trong thai kỳ và giảm dần khi thai kỳ tiến triển. Thiếu máu có thể được chẩn đoán với mức hemoglobin dưới 100 g/L trong ba tháng đầu và dưới 105 g/L trong ba tháng giữa và thứ ba.

Ảnh hưởng đến thai kỳ

Thiếu máu do thiếu sắt chủ yếu ảnh hưởng đến mẹ. Với thiếu máu nhẹ, thai nhi thường không bị ảnh hưởng mặc dù khả năng vận chuyển oxy của mẹ giảm. Tuy nhiên, em bé có nhiều khả năng bị thiếu sắt trong năm đầu đời do thiếu sự phát triển dự trữ sắt của thai nhi trong tử cung. Với thiếu máu nặng, có nguy cơ sinh non và cân nặng khi sinh thấp và có thể mất máu nhiều hơn khi sinh.

Ảnh hưởng đến mẹ trong tất cả các giai đoạn của thai kỳ là nguy cơ phát triển thiếu máu có triệu chứng có thể gây mệt mỏi, giảm hiệu suất làm việc và tăng khả năng bị nhiễm trùng. Nếu thiếu máu kéo dài đến thời điểm sinh, sẽ thiếu dự trữ nếu xảy ra mất máu đáng kể. Có mối liên quan chặt chẽ giữa thiếu máu nặng và tử vong mẹ. Nguy cơ cần truyền máu quanh sinh cũng tăng lên.

Xử trí

Việc nhận biết và điều trị kịp thời tình trạng thiếu máu đang phát triển sẽ tối ưu hóa mức hemoglobin của phụ nữ trong thai kỳ và giảm nguy cơ bắt đầu chuyển dạ trong tình trạng thiếu máu.

Mặc dù hầu hết các trường hợp thiếu máu trong thai kỳ là thứ phát do thiếu sắt, cần xem xét liệu có tình trạng thiếu máu tiềm ẩn hay không hoặc liệu thiếu folate có thể liên quan hay không.

Nếu có nghi ngờ lâm sàng rằng thiếu sắt không phải là nguyên nhân gây thiếu máu hoặc nếu một phụ nữ không đáp ứng với việc bổ sung sắt, thì tình trạng sắt nên được đánh giá bằng nồng độ ferritin hoặc kẽm protoporphyrin, đo folate và thực hiện điện di hemoglobin để loại trừ các bệnh huyết sắc tố. Bổ sung sắt đường uống được khuyến nghị là phương pháp điều trị hàng đầu. Sắt được hấp thu tốt hơn nếu uống cùng với axit ascorbic (ví dụ, nước cam) và nếu tránh uống trà và cà phê tại thời điểm uống. Tư vấn chế độ ăn uống cũng nên được đưa ra. Tuân thủ việc bổ sung sắt thường kém do các tác dụng phụ của táo bón và kích ứng dạ dày. Nếu sắt không được dung nạp hoặc nếu không thấy cải thiện hemoglobin mặc dù đã điều trị bằng sắt, thì có thể xem xét dùng sắt đường tiêm. Đôi khi, truyền máu được xem xét nếu thiếu máu nặng và được chẩn đoán gần ngày sinh.

Việc tiếp tục điều trị đầy đủ sau sinh là điều cần thiết để giảm nguy cơ một phụ nữ bước vào lần mang thai tiếp theo trong tình trạng thiếu máu.

Thiếu vitamin B12 cực kỳ hiếm gặp trong thai kỳ, nhưng nếu được chẩn đoán, điều trị bằng cách bổ sung B12 đường uống hoặc đường tiêm.

Dự phòng

Bổ sung sắt định kỳ (thường kết hợp với axit folic) trong suốt thai kỳ có thể làm giảm nguy cơ thiếu sắt. Đây hiện không phải là khuyến nghị định kỳ ở Vương quốc Anh do thiếu bằng chứng về kết quả cải thiện. Ở một số quốc gia khác nơi thiếu sắt phổ biến, đây là thực hành tiêu chuẩn.

Đái tháo đường thai kỳ

Đái tháo đường thai kỳ là một tình trạng ngày càng phổ biến trong thai kỳ, xảy ra ở 9% tổng số các ca mang thai ở các nước phương Tây. Tuy nhiên, tỷ lệ này cao hơn nhiều ở các quần thể có nguy cơ (ví dụ: phụ nữ châu Á hoặc béo phì).

Nguyên nhân

Thai kỳ gây ra một trạng thái gây đái tháo đường. Điều này chủ yếu là do sự tăng đề kháng với hoạt động của insulin do nhau thai sản xuất các hormone kháng insulin (human placental lactogen, glucagon và cortisol), mặc dù sự gia tăng sản xuất glucocorticoid và hormone tuyến giáp của mẹ trong thai kỳ cũng góp phần vào điều này. Để đáp ứng, tuyến tụy của mẹ phải tăng sản xuất insulin để chống lại điều này. Ở một số phụ nữ, điều này không đạt được, và kết quả là đái tháo đường thai kỳ.

Yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ tương tự như các yếu tố nguy cơ của đái tháo đường type 2 và được liệt kê trong Hộp 9.1. Danh sách này được lấy từ Hướng dẫn lâm sàng của NICE ‘Đái tháo đường trong thai kỳ’ (2008, sửa đổi 2015). Hướng dẫn chỉ khuyến nghị rằng một số yếu tố nguy cơ được sử dụng để sàng lọc trong thực hành. Sự hiện diện của một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ này sẽ dẫn đến việc đề nghị thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống 75g (OGTT). Tuy nhiên, nhiều bác sĩ lâm sàng cho rằng sự hiện diện của bất kỳ yếu tố nguy cơ nào, thay vì một tập hợp con, nên kích hoạt việc đề nghị thực hiện OGTT.

Hộp 9.1 Phụ nữ có nguy cơ tăng không dung nạp glucose trong thai kỳ

  • Tiền sử sinh con to (hơn 4,5 kg hoặc hơn)*
  • Tiền sử đái tháo đường thai kỳ*
  • Người thân đời thứ nhất bị đái tháo đường*
  • Béo phì (BMI hơn 30 kg/m²)*
  • Nguồn gốc gia đình dân tộc cụ thể có tỷ lệ đái tháo đường cao**:
    • Nam Á (cụ thể là phụ nữ có quốc gia nguồn gốc gia đình là Ấn Độ, Pakistan hoặc Bangladesh)
    • Người Caribbean da đen
    • Trung Đông (cụ thể là phụ nữ có quốc gia nguồn gốc gia đình là Ả Rập Xê Út, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Iraq, Jordan, Syria, Oman, Qatar, Kuwait, Lebanon hoặc Ai Cập)
  • Thai to trong thai kỳ hiện tại (được định nghĩa khác nhau trong các nghiên cứu khác nhau, ví dụ: chu vi vòng bụng của thai nhi đo bằng siêu âm > phân vị thứ 90, hoặc trọng lượng thai nhi ước tính bằng các công thức dựa trên các phép đo siêu âm)
  • Đường niệu ≥1+ trong hơn một lần hoặc ≥2+ trong một lần
  • Tiền sử tử vong chu sinh không rõ nguyên nhân
  • Tiền sử hội chứng buồng trứng đa nang
  • Đa ối
  • Đường huyết lúc đói (FBG) hơn 6,0 mmol/L hoặc đường huyết ngẫu nhiên hơn 7,0 mmol/L

Các yếu tố nguy cơ được in đậm là những yếu tố mà Hướng dẫn lâm sàng của NICE khuyến nghị nên được sử dụng để sàng lọc trong thực hành trong thai kỳ dưới dạng nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống 75g. Từ Viện Y tế và Chất lượng Lâm sàng Quốc gia (2008, sửa đổi và cập nhật 2015). Đái tháo đường trong thai kỳ: Xử trí đái tháo đường và các biến chứng của nó từ tiền thụ thai đến giai đoạn hậu sản. Hướng dẫn Xuất bản NICE NG 63.

Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán

Đái tháo đường thai kỳ có thể không có triệu chứng. Do đó, cần có một chương trình sàng lọc có thể là toàn dân hoặc có chọn lọc. Hầu hết các đơn vị thích phương pháp tiếp cận có chọn lọc vì lý do thực tế và tài chính. Sàng lọc có chọn lọc được cung cấp cho các nhóm nguy cơ được liệt kê trong Hộp 9.1. Như đã mô tả trước đó, sàng lọc được thực hiện bằng OGTT 75g ở tuần 28, hoặc nếu nguy cơ rất cao, vào đầu ba tháng giữa và sau đó lặp lại ở tuần 28 (nếu bình thường ở lần xét nghiệm đầu tiên). Trong OGTT, mức glucose lúc đói được đo trước, sau đó một liều tải 75g glucose được đưa ra và một mức glucose khác được lấy sau 2 giờ sau khi tải đường. Có một cuộc tranh luận đang diễn ra về mức glucose mà tại đó nên chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ. Bảng 9.2 chỉ ra hai tiêu chí chẩn đoán được sử dụng phổ biến nhất.

Bảng 9.2 Tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ sử dụng nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống 75g

Tiêu chí chẩn đoán Giá trị lúc đói bình thường
(glucose huyết tương tĩnh mạch)
Giá trị 2 giờ bình thường
(glucose huyết tương tĩnh mạch)
WHO 1999⁸
Yêu cầu một hoặc nhiều giá trị bất thường
<7,0 mmol/L <7,8 mmol/L
IADPSG
Yêu cầu một hoặc nhiều giá trị bất thường
<5,1 mmol/L <8,5 mmol/L

IADPSG, Hiệp hội Quốc tế các Nhóm Nghiên cứu về Đái tháo đường và Thai kỳ; WHO, Tổ chức Y tế Thế giới.

Trong một quần thể nhất định, việc sử dụng các tiêu chí IADPSG dẫn đến nhiều chẩn đoán ‘đái tháo đường thai kỳ’ hơn so với việc sử dụng các tiêu chí của WHO.

⁸Tổ chức Y tế Thế giới. Định nghĩa, Chẩn đoán và Phân loại Đái tháo đường và các Biến chứng của nó: Báo cáo của một Cuộc họp Tham vấn của WHO. Phần 1: Chẩn đoán và Phân loại Đái tháo đường. Geneva, Tổ chức Y tế Thế giới, 1999.

⁹Metzger BE, Gabbe SG, Persson B, và cộng sự. (2010) Khuyến nghị của hiệp hội quốc tế các nhóm nghiên cứu về đái tháo đường và thai kỳ về chẩn đoán và phân loại tăng đường huyết trong thai kỳ. Diabetes Care 33:676-682.

Ảnh hưởng đến thai kỳ

Đái tháo đường thai kỳ chủ yếu là một bệnh của Ba tháng cuối và đôi khi là ba tháng giữa (Bảng 9.3). Ở mẹ, sự hiện diện của đái tháo đường thai kỳ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng tái phát và phát triển tiền sản giật. Đối với thai nhi, có nguy cơ đa ối và thai to, trong đó thai to liên quan đến mức độ kiểm soát glucose. Có nguy cơ thai chết lưu tăng. Về sinh nở, phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ có nhiều khả năng được khởi phát chuyển dạ. Nếu sinh ngả âm đạo, kẹt vai, sinh có can thiệp và rách tầng sinh môn rộng là phổ biến hơn. Phụ nữ bị đái tháo đường có nhiều khả năng phải mổ lấy thai. Trẻ sơ sinh có nhiều khả năng cần nhập viện tại đơn vị sơ sinh. Chúng có nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh tăng do hoạt động tương đối quá mức của tuyến tụy thai nhi trong tử cung. Điều này ít có khả năng xảy ra nếu đường huyết của mẹ được kiểm soát tốt vào khoảng thời gian sinh. Glucose của mẹ dễ dàng đi qua nhau thai, trong khi insulin thì không.

Hãy nhớ rằng glucose dễ dàng đi qua nhau thai và tăng đường huyết ở mẹ dẫn đến nồng độ glucose trong máu của thai nhi tăng cao. Mặt khác, insulin không đi qua nhau thai, và do đó thai nhi hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn cung cấp sản xuất insulin của chính mình để điều chỉnh nồng độ đường trong máu.

Bảng 9.3 Ảnh hưởng của đái tháo đường thai kỳ lên thai kỳ

Nguy cơ/biến chứng cho mẹ

Nguy cơ/biến chứng cho thai/sơ sinh

Ba tháng đầu
Ba tháng giữa
Ba tháng cuối
Tiền sản giật
Nhiễm trùng tái phát
Thai to
Đa ối
Thai chết lưu
Chuyển dạ Khởi phát chuyển dạ
Chuyển dạ kéo dài
Sinh Sinh có can thiệp
Sang chấn khi sinh
Mổ lấy thai
Kẹt vai
Hậu sản Hạ đường huyết sơ sinh
Nhập viện đơn vị sơ sinh
Hội chứng suy hô hấp
Vàng da
Lâu dài Đái tháo đường type 2 sau này trong đời Béo phì và đái tháo đường ở thời thơ ấu và sau này

Mặc dù đối với phần lớn phụ nữ, đái tháo đường thai kỳ sẽ tự khỏi sau khi mang thai, nhưng ở một số phụ nữ, chẩn đoán này là sự bộc lộ của đái tháo đường type 2 và việc chăm sóc bệnh đái tháo đường sẽ cần phải tiếp tục.

Phụ nữ đã từng bị đái tháo đường thai kỳ vẫn có nguy cơ cao phát triển đái tháo đường type 2 sau này trong đời. Những phụ nữ này nên có một hình thức sàng lọc định kỳ, chẳng hạn như hàng năm, để loại trừ bệnh đái tháo đường.

Đối với trẻ sơ sinh, các tác động lập trình của thai nhi làm tăng nguy cơ béo phì và đái tháo đường ở thời thơ ấu sau này.

Xử trí

Các đội ngũ đa chuyên khoa bao gồm bác sĩ sản khoa, bác sĩ chuyên khoa đái tháo đường, y tá chuyên khoa đái tháo đường và nữ hộ sinh và chuyên gia dinh dưỡng nên quản lý bệnh đái tháo đường trong thai kỳ.

Trong thai kỳ, mục tiêu là giảm nguy cơ biến chứng bằng cách đạt được kiểm soát glucose tốt. Ban đầu, điều này được thực hiện bằng các biện pháp ăn kiêng nhằm tránh những biến động lớn về nồng độ glucose: tiêu thụ lượng carbohydrate có chỉ số đường huyết thấp và protein nạc tăng lên và tránh các loại thực phẩm carbohydrate có chỉ số đường huyết cao. Nếu điều này không thành công thì có thể sử dụng thuốc. Metformin và glibenclamide ngày càng được sử dụng nhiều trong thai kỳ và có thể làm giảm nhu cầu insulin, nhưng một số phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ sẽ cần insulin để tối ưu hóa việc kiểm soát. Mục tiêu là nồng độ glucose mao mạch trước bữa ăn/lúc đói nên từ 4,0 đến 6,0 mmol/L và giá trị sau bữa ăn 2 giờ nên từ 6,0 đến 8,0 mmol/L. Bằng chứng từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã chứng minh rằng việc điều trị đái tháo đường thai kỳ với mục tiêu đạt được đường huyết bình thường ở phụ nữ sẽ cải thiện kết quả. Siêu âm tăng trưởng hàng loạt được khuyến nghị để cảnh báo về tình trạng thai to ngày càng tăng.

Cần duy trì cảnh giác đối với sự phát triển của tiền sản giật.

Việc sinh con đủ tháng được khuyến nghị để giảm nguy cơ thai chết lưu. Điều này có thể cần được thực hiện sớm hơn tùy thuộc vào mức độ kiểm soát đái tháo đường, sự hiện diện của thai to hoặc nếu các tình trạng khác đã phát sinh, chẳng hạn như tiền sản giật. Nếu xem xét sinh non, nên xem xét dùng corticosteroid trước sinh để giảm khả năng và mức độ nghiêm trọng của suy hô hấp ở trẻ sơ sinh. Corticosteroid có thể cần tăng tạm thời điều trị đái tháo đường để giữ giá trị đường huyết trong phạm vi bình thường. Trong chuyển dạ, đường huyết nên được đo thường xuyên và điều trị tăng đường huyết để giảm nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh. Thai nhi nên được theo dõi liên tục. Liệu pháp điều trị đái tháo đường có thể được ngừng sau khi sinh nhau thai. Em bé sẽ cần đo đường huyết để tìm hạ đường huyết, và việc cho ăn nên được bắt đầu sớm để giúp em bé duy trì mức đường của mình.

Sau sinh, tất cả các phương pháp điều trị đái tháo đường nên được ngừng và tiếp tục kiểm tra glucose mao mạch. Ở phần lớn phụ nữ, các giá trị này sẽ bình thường, cho thấy đây là đái tháo đường thai kỳ thực sự. Nếu chúng vẫn tăng cao, thì có nghi ngờ về đái tháo đường type 2 và cần chuyển đến đội ngũ chuyên khoa đái tháo đường. Phụ nữ nên được tư vấn về những tác động lâu dài của đái tháo đường thai kỳ và sự cần thiết của việc sàng lọc định kỳ, ví dụ, bằng OGTT hàng năm bởi bác sĩ đa khoa của họ. Lời khuyên về việc giảm các nguy cơ lối sống khác liên quan đến đái tháo đường cũng có thể phù hợp.

Nhiễm trùng mắc phải trong thai kỳ

Phụ nữ sẽ gặp phải các bệnh nhiễm trùng trong thai kỳ giống như khi họ không mang thai. Tuy nhiên, tình trạng ức chế miễn dịch tương đối của thai kỳ có thể ảnh hưởng đến cách cơ thể phản ứng với nhiễm trùng.

Yếu tố nguy cơ

Phụ nữ mang thai có con nhỏ hoặc làm việc với trẻ em có nhiều khả năng gặp phải nhiều bệnh nhiễm trùng.

Ảnh hưởng đến thai kỳ và xử trí

Ảnh hưởng đến thai kỳ và cách xử trí thay đổi tùy thuộc vào loại nhiễm trùng cụ thể. Một lần nữa, điều quan trọng là phải xem xét tác động lên cả mẹ và thai nhi. Tác động lên thai nhi có thể thay đổi khi cùng một loại nhiễm trùng được mắc phải ở các tuổi thai khác nhau.

Thủy đậu

Thủy đậu là một bệnh thời thơ ấu rất dễ lây do virus Varicella zoster gây ra; nó có những ảnh hưởng đáng kể đến cả mẹ và thai nhi. Phụ nữ mang thai đặc biệt có nguy cơ phát triển viêm phổi do thủy đậu với tỷ lệ tử vong mẹ và thai nhi cao. Nếu mắc bệnh vào đầu thai kỳ, có nguy cơ 1-2% đối với thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh (dị tật mắt, thiểu sản chi và bất thường thần kinh). Nếu mắc bệnh gần ngày sinh, có nguy cơ mắc thủy đậu sơ sinh với nguy cơ tử vong đáng kể.

Nếu một phụ nữ mang thai không có miễn dịch tiếp xúc với bệnh thủy đậu, cô ấy có thể được cung cấp globulin miễn dịch zoster để giảm nguy cơ nhiễm trùng. Nếu một phụ nữ bị nhiễm bệnh, nên dùng acyclovir để giảm nguy cơ biến chứng cho mẹ. Siêu âm có thể sàng lọc hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Với nhiễm trùng khi đủ tháng, lý tưởng nhất là nên trì hoãn việc sinh để có thời gian cho việc truyền kháng thể thụ động cho thai nhi. Cần cẩn thận để tránh tiếp xúc với những phụ nữ mang thai khác không có miễn dịch.

Parvovirus B19

Nhiễm Parvovirus B19 còn được gọi là ban đỏ nhiễm trùng, bệnh thứ năm hay hội chứng má tát. Là một bệnh phổ biến ở trẻ em, các triệu chứng ở mẹ có thể bao gồm sốt, phát ban và đau khớp, nhưng thường ảnh hưởng là tối thiểu. Ngược lại, có những ảnh hưởng tiềm tàng đáng kể đối với thai nhi vì parvovirus lây nhiễm vào các tế bào phân chia nhanh và có thể gây sẩy thai ở giai đoạn đầu thai kỳ và thiếu máu thai nhi và suy tim (‘phù thai’) ở giai đoạn sau của thai kỳ.

Xử trí bao gồm sử dụng các thuốc giảm đau và hạ sốt đơn giản cho các triệu chứng của mẹ và tránh tiếp xúc với những phụ nữ mang thai khác. Nếu nhiễm trùng xảy ra sau 20 tuần, siêu âm Doppler dòng máu động mạch não giữa của thai nhi hàng loạt có thể phát hiện thiếu máu thai nhi (dòng máu tăng) có thể cần được điều trị bằng truyền máu trong tử cung.

Cúm H1N1

Cúm H1N1 đã gây ra một đại dịch toàn cầu vào năm 2009 và 2010 và hiện là một trong những chủng virus cúm mùa chiếm ưu thế. Phụ nữ mang thai có biểu hiện sốt và ho tương tự như người không mang thai. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai có nguy cơ biến chứng cao hơn như suy hô hấp và nhiễm trùng thứ phát do vi khuẩn và có nguy cơ tử vong cao hơn đáng kể so với người không mang thai. Ngoài ra, các ảnh hưởng bao gồm tăng nguy cơ sinh non, thai chết lưu và tử vong sơ sinh.

Xử trí bao gồm điều trị bằng các thuốc kháng virus, như oseltamivir hoặc zanamivir, và hỗ trợ hô hấp nếu cần. Tất cả phụ nữ mang thai nên được khuyên tiêm phòng cúm H1N1.

Nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người

HIV là một loại virus làm suy yếu hệ thống miễn dịch, và theo thời gian AIDS có thể phát triển. HIV cũng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng khác và phát triển ung thư. Tuy nhiên, những người nhiễm HIV có thể không có triệu chứng trong nhiều năm. Số người sống chung với HIV trên toàn thế giới đang tăng lên, và một tỷ lệ đáng kể trong số này là phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Với bệnh tiến triển, liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao (HAART) đã được chứng minh là làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do nhiễm HIV.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh
Thai kỳ dường như không làm tăng tốc độ tiến triển của nhiễm HIV hoặc tăng khả năng phát triển AIDS.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Mối quan tâm chính trong thai kỳ là nguy cơ lây truyền dọc cao (lên đến 45%) của HIV từ mẹ sang con nếu không có can thiệp y tế. Điều này có thể xảy ra qua nhau thai trong giai đoạn trước sinh, trong quá trình sinh ngả âm đạo và sau sinh qua sữa mẹ. Nguy cơ cao nhất ở bệnh tiến triển, khi chuyển đổi huyết thanh và với tải lượng virus cao. Ở những phụ nữ không cho con bú, tỷ lệ lây truyền giảm xuống dưới 25%. Với can thiệp y tế dưới dạng liệu pháp kháng retrovirus đa thuốc, có thể giảm lây truyền dọc xuống dưới 2%.

Ngoài ra, có nguy cơ tăng sẩy thai, thai chậm tăng trưởng, sinh non và thai chết lưu ở những phụ nữ bị bệnh HIV tiến triển.

Một số phụ nữ sẽ đã dùng HAART trước khi mang thai, và điều này nên được xem xét lại để cân nhắc sự an toàn của từng loại thuốc trong thai kỳ. Nhiều phụ nữ sẽ chưa từng điều trị.

Những phụ nữ đang dùng HAART và có tải lượng virus dưới 400 bản sao/ml có thể sinh ngả âm đạo, vì nguy cơ lây truyền dọc rất thấp. Tuy nhiên, những người không dùng HAART và/hoặc có tải lượng virus từ 400 bản sao/mL trở lên nên được khuyên mổ lấy thai để giảm nguy cơ lây truyền dọc.

Có một số bằng chứng cho thấy tác động nội tiết tố của thai kỳ có thể làm tăng nguy cơ độc tính của liệu pháp kháng retrovirus ở phụ nữ, đặc biệt là các chất ức chế men sao chép ngược nucleoside. Các tác dụng phụ được báo cáo bao gồm nhiễm toan lactic, suy gan và thậm chí tử vong mẹ. Ngoài ra, một số thuốc kháng retrovirus được cho là gây quái thai và nên tránh dùng trong thai kỳ.

Sàng lọc

Mặc dù nhiều phụ nữ sẽ biết mình bị nhiễm HIV khi mang thai, một số phụ nữ sẽ không biết mình dương tính với HIV do giai đoạn không có triệu chứng kéo dài của bệnh. Do đó, với tỷ lệ lây truyền dọc cao và hiệu quả của can thiệp, nhiều quốc gia hiện nay ủng hộ việc sàng lọc trong thai kỳ. Điều này thường được thực hiện vào đầu thai kỳ, nhưng ở những phụ nữ có nguy cơ cao, có thể thích hợp để đề nghị xét nghiệm lại vào cuối thai kỳ. Phụ nữ nên được tư vấn đầy đủ về lý do sàng lọc HIV và những cải thiện về kết quả có thể đạt được nếu HIV được chẩn đoán.

Xử trí

Phụ nữ nhiễm HIV mang thai nên được quản lý chung bởi một bác sĩ sản khoa chuyên khoa và bác sĩ chuyên khoa HIV. Sự tham gia của đội ngũ nhi khoa nên diễn ra trước sinh để thảo luận về sàng lọc và điều trị cho trẻ sơ sinh.

Phụ nữ nên được đánh giá lâm sàng thường xuyên và bằng các phép đo máu về tải lượng virus và số lượng CD4.

Gói chăm sóc ban đầu cho phụ nữ nhiễm HIV trong thai kỳ bao gồm thuốc kháng HIV, mổ lấy thai và tránh cho con bú. Việc sử dụng thuốc kháng HIV trong thai kỳ đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ lây truyền dọc. Một số phụ nữ sẽ đã dùng HAART vì nhu cầu sức khỏe của chính họ, và điều này nên tiếp tục, miễn là các thuốc không được báo cáo là có bất kỳ tác dụng độc hại nào ở phụ nữ hoặc gây quái thai ở thai nhi. Ở những phụ nữ chưa từng điều trị, thuốc kháng HIV nên bắt đầu trong ba tháng giữa và tiếp tục cho đến khi sinh. Các phác đồ được sử dụng bao gồm đơn trị liệu zidovudine và HAART (các chất tương tự nucleotide và chất ức chế protease dường như tương đối an toàn; các chất ức chế men sao chép ngược không nucleoside nên được tránh). Tuy nhiên, HAART là phương pháp điều trị được khuyến nghị. Trong khi mổ lấy thai vẫn được ủng hộ cho những phụ nữ có bệnh không được ức chế, những phụ nữ có tải lượng virus <400 bản sao/mL đã dùng HAART trong thai kỳ hiện có thể lựa chọn sinh ngả âm đạo mà không làm tăng lây truyền. Các thủ thuật xâm lấn nên được tránh trong thai kỳ và chuyển dạ, ví dụ, chọc ối, sử dụng điện cực da đầu thai nhi và lấy máu da đầu thai nhi.

Sàng lọc sơ sinh cho nhiễm HIV bắt đầu khi sinh và tiếp tục cho đến 12 tuần. Trẻ sơ sinh cần điều trị kháng retrovirus sau phơi nhiễm trong vài tuần. Phụ nữ nên được khuyên mạnh mẽ không cho con bú.

Bảo mật là một vấn đề đối với một số phụ nữ nhiễm HIV mà gia đình họ có thể không biết tình trạng của họ. Phụ nữ nên được trấn an rằng bảo mật có thể và sẽ được duy trì mặc dù có sự can thiệp y tế tăng lên.

Viêm gan siêu vi cấp

Bảy loại virus viêm gan đã được xác định, phổ biến nhất là viêm gan A, B và C. Tất cả đều có thể biểu hiện tương tự với tình trạng khó chịu chung, buồn nôn, nôn và sốt cùng với rối loạn chức năng gan; tuy nhiên, với viêm gan B và C, một tỷ lệ đáng kể có thể không có triệu chứng (lên đến 80% phụ nữ bị viêm gan C). Viêm gan A lây qua đường phân-miệng, trong khi B và C lây qua đường máu. Chúng có thể được phân biệt bằng các xét nghiệm huyết thanh học. Viêm gan A thường được loại bỏ sau khi nhiễm trùng ban đầu; viêm gan B có thể được loại bỏ, có thể tồn tại ở trạng thái mang mầm bệnh hoặc có thể dẫn đến nhiễm trùng mạn tính; và viêm gan C thường dẫn đến nhiễm trùng mạn tính và nguy cơ xơ gan và suy gan lâu dài.

Tỷ lệ mắc viêm gan trong thai kỳ có sự thay đổi lớn về địa lý. Ở Anh, 1-4% phụ nữ sẽ bị nhiễm viêm gan B hoặc C.

Thai kỳ thường không làm thay đổi diễn biến của một đợt viêm gan cấp. Một số ít người mang mầm bệnh viêm gan B mạn tính có thể bị tái hoạt động bệnh trong thai kỳ. Có một số bằng chứng cho thấy thai kỳ ở phụ nữ bị viêm gan C có thể làm tăng tốc độ tiến triển của bệnh.

Viêm gan thường không ảnh hưởng đến bản thân thai kỳ. Ở những phụ nữ bị nhiễm trùng cấp tính nặng trong thai kỳ, có sự gia tăng tỷ lệ chuyển dạ sinh non tự nhiên. Mối quan tâm chính là nguy cơ lây truyền cho trẻ sơ sinh. Với viêm gan A, điều này có thể xảy ra nếu nhiễm trùng cấp tính xảy ra trong vài tuần cuối trước khi sinh. Với tình trạng mang mầm bệnh viêm gan B và C mạn tính, lây truyền có thể xảy ra quanh sinh. Ở những phụ nữ bị viêm gan C mạn tính, lây truyền dọc sẽ xảy ra ở 1 trong 20 ca sinh.

Xử trí trong thai kỳ liên quan đến phòng ngừa, xác định và giảm nguy cơ lây truyền dọc. Nguy cơ nhiễm viêm gan A có thể được giảm bằng các biện pháp vệ sinh và xem xét tiêm chủng cho phụ nữ ở các khu vực lưu hành viêm gan A. Tiêm chủng không chống chỉ định trong thai kỳ. Phụ nữ có nguy cơ mắc viêm gan B và C nên được tư vấn về hành vi nguy cơ (đặc biệt là sử dụng ma túy qua đường tĩnh mạch). Tiêm chủng viêm gan B có thể được đề nghị trước và trong khi mang thai; tuy nhiên, hiện tại không có vắc-xin hiệu quả chống lại viêm gan C.

Phụ nữ có thể được sàng lọc viêm gan B và C trong thai kỳ. Đây có thể là sàng lọc toàn dân hoặc có chọn lọc dựa trên tiền sử của phụ nữ. Việc xác định trước sinh là quan trọng để giảm lây truyền dọc. Ở những phụ nữ bị viêm gan C, nên loại trừ đồng nhiễm HIV.

Lây truyền dọc viêm gan B và C không giảm bằng cách mổ lấy thai hoặc tránh cho con bú. Do đó, sinh ngả âm đạo được ủng hộ (trừ khi có các chỉ định sản khoa khác cho việc mổ lấy thai) nhưng tránh các can thiệp có thể làm tăng tiếp xúc với máu, chẳng hạn như đặt điện cực da đầu thai nhi hoặc lấy mẫu máu thai nhi. Trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị viêm gan B có thể được điều trị bằng globulin miễn dịch viêm gan B và tiêm chủng viêm gan B sớm, giúp giảm tỷ lệ lây truyền xuống 5-10%. Có những lựa chọn hạn chế để giảm tỷ lệ lây truyền với viêm gan C, nhưng việc xác định sớm trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh đảm bảo theo dõi đầy đủ nguy cơ bệnh gan mạn tính.

Bệnh lao

Bệnh lao (TB) vẫn là một vấn đề sức khỏe thế giới với ít nhất 8 triệu ca mắc mới mỗi năm và lên đến 2 triệu ca tử vong. Mặc dù các nước phát triển có tỷ lệ nhiễm bệnh thấp, tỷ lệ cao hơn được tìm thấy ở những người tị nạn và du khách đến và đi từ các khu vực lưu hành. Lao và HIV có tác động hiệp đồng. HIV là một trong những tác nhân phổ biến nhất gây tái hoạt động lao, và lao chịu trách nhiệm cho khoảng 25% các ca tử vong ở những người nhiễm HIV. Hai nguy cơ đã được chứng minh đối với thai nhi là việc sử dụng một số loại thuốc chống lao và nếu người mẹ bị bệnh hô hấp nặng với tình trạng thiếu oxy kéo dài. Mycobacterium tuberculosis hiếm khi đi qua nhau thai. Các nguy cơ đối với phụ nữ từ bệnh lao không được điều trị là giống như ở bệnh nhân không mang thai. Xét nghiệm lao tố nên được thực hiện thường quy ở các khu vực có nguy cơ cao và đặc biệt nếu nghi ngờ bệnh ở một bệnh nhân. Chụp X-quang ngực và cấy đờm nên được thực hiện ở những người có kết quả dương tính. Nếu chẩn đoán được xác nhận, thì điều trị đa thuốc, như ở bệnh nhân không mang thai, được chỉ định. Phụ nữ bị lao đã được chứng minh cũng nên được sàng lọc HIV. Streptomycin là loại thuốc duy nhất chống chỉ định tuyệt đối trong thai kỳ do nguy cơ gây độc tai cho thai nhi.

Sốt rét

Sốt rét xảy ra ở hơn 200 triệu người mỗi năm và dẫn đến hơn 1 triệu ca tử vong hàng năm. Đây là một biến chứng phổ biến của thai kỳ ở những quốc gia nơi bệnh lưu hành. Thai kỳ dường như làm tăng khả năng nhiễm bệnh. Phụ nữ sống ở các khu vực lưu hành cũng cho thấy tỷ lệ mắc các dạng bệnh nặng tăng lên. Mức độ nghiêm trọng của bệnh liên quan đến loài ký sinh trùng, mức độ ký sinh trùng trong máu và tình trạng miễn dịch của cá nhân. Plasmodium falciparum là loài độc lực nhất trong các sinh vật, vì nó tấn công tất cả các dạng hồng cầu. Ký sinh trùng phát triển trong nhau thai, và sốt rét nhau thai xảy ra ở bất kỳ đâu từ 15% đến 60% các trường hợp. Sốt rét bẩm sinh hiếm gặp ở trẻ sơ sinh của các bà mẹ có miễn dịch, vì globulin miễn dịch G (IgG) bảo vệ đi qua nhau thai.

Nguy cơ chính của sốt rét cấp tính đối với phụ nữ là thiếu máu nặng và các hậu quả của nó. Ở thai nhi, sốt rét cấp tính có liên quan đến khả năng tăng trưởng hạn chế, sẩy thai, sinh non, nhiễm trùng bẩm sinh và tử vong chu sinh.

Các bà mẹ đi đến các khu vực lưu hành nên dùng thuốc dự phòng hoặc, tốt nhất là không đến khu vực đó cho đến khi thai kỳ kết thúc. Họ cũng nên được khuyên che kín da và sử dụng thuốc trừ sâu để giảm thiểu nguy cơ bị muỗi đốt.

Điều trị bằng thuốc cho một đợt cấp tính sẽ phụ thuộc vào bản chất của nhiễm trùng. Dự phòng được đưa ra dưới dạng chloroquine phosphate với liều 300 mg mỗi tuần, bắt đầu 1 tuần trước khi đi và tiếp tục trong 4 tuần sau khi rời khỏi khu vực. Nơi có các chủng kháng chloroquine, có thể sử dụng kết hợp chloroquine và pyrimethamine với sulfadoxine hoặc proguanil và mefloquine. Các loại thuốc này cần được dùng cùng với bổ sung axit folic. Mặc dù chloroquine có thể gây tổn thương võng mạc và tiền đình ốc tai ở liều cao ở cả mẹ và thai nhi, nhưng nó chưa bao giờ được chứng minh là có liên quan đến tỷ lệ dị tật bẩm sinh tăng lên khi được dùng để dự phòng.

Nhiễm Rubella

Rubella (sởi Đức hoặc ‘bệnh thứ ba’) là một bệnh phát ban do một loại virus RNA đơn sợi gây ra, lây qua đường hô hấp. Sau thời gian ủ bệnh từ 2 đến 3 tuần, bệnh nhân có triệu chứng phát triển phát ban, sốt, đau khớp và nổi hạch. Năm mươi đến bảy mươi lăm phần trăm bệnh nhân bị nhiễm bệnh có biểu hiện lâm sàng. Các biến chứng nặng như viêm não và chảy máu hiếm gặp.

Nhiễm Rubella thường là một bệnh nhẹ ở người lớn và trẻ em. Tuy nhiên, nhiễm trùng ở thai nhi có thể nghiêm trọng. Hội chứng Rubella bẩm sinh (CRS) có thể gây ra các bất thường tạm thời (ví dụ: ban xuất huyết, lách to, vàng da, viêm màng não và giảm tiểu cầu) hoặc các bất thường vĩnh viễn (ví dụ: đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, bệnh tim, điếc, đầu nhỏ và chậm phát triển trí tuệ). Các di chứng lâu dài được báo cáo bao gồm đái tháo đường, bất thường tuyến giáp, dậy thì sớm và viêm não toàn thể Rubella tiến triển. Các dị tật liên quan đến hầu hết mọi cơ quan đã được báo cáo.

Tỷ lệ nhiễm trùng ở thai nhi cao nhất ở tuần 11 và >36 tuần. Tuy nhiên, tỷ lệ dị tật bẩm sinh nói chung lớn nhất trong ba tháng đầu (90%) và giảm dần trong ba tháng giữa và thứ ba.

Việc đưa vắc-xin Rubella vào sử dụng đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc CRS. Vấn đề này nên được phòng ngừa bằng cách tiêm chủng thời thơ ấu như một phần của chương trình sởi, quai bị và rubella (MMR) được hỗ trợ bởi các chương trình tiêm chủng cho các bé gái ở tuổi vị thành niên. Tuy nhiên, các trường hợp lẻ tẻ vẫn xảy ra, đặc biệt là ở những phụ nữ chưa được tiêm chủng. Do đó, lý tưởng nhất là phụ nữ nên kiểm tra tình trạng huyết thanh của mình trước khi thụ thai và, nếu âm tính, họ nên được đề nghị tiêm chủng. Mặc dù lời khuyên là tránh thụ thai trong ít nhất 28 ngày sau khi tiêm chủng, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy việc tiêm chủng trong thai kỳ có bất kỳ ảnh hưởng nào đến thai nhi và không phải là chỉ định phá thai.

Ở nhiều quốc gia, tình trạng miễn dịch với Rubella (được biểu thị bằng huyết thanh IgG dương tính) được kiểm tra tại lần khám đầu tiên cho tất cả phụ nữ. Tuy nhiên, ở Anh, thực hành này đã dừng lại vào năm 2016 do tỷ lệ mắc Rubella trong dân số thấp. Nếu một phụ nữ miễn dịch với Rubella tiếp xúc với nhiễm trùng, sự vắng mặt của dấu hiệu cấp tính (huyết thanh IgM) sau 3 tuần kể từ khi tiếp xúc xác nhận rằng cô ấy chưa bị nhiễm bệnh và có thể được trấn an. Tuy nhiên, nếu một phụ nữ nhạy cảm với Rubella tiếp xúc, trước tiên điều quan trọng là phải xác nhận chẩn đoán ở ca bệnh chỉ điểm. Việc xử trí sau đó sẽ phụ thuộc vào việc người phụ nữ có bị nhiễm trùng hay không (được chẩn đoán bằng cách trở nên dương tính với IgM), giai đoạn của thai kỳ và mong muốn của người phụ nữ.

Nhiễm virus Zika

Virus Zika là một flavivirus do muỗi truyền, lây truyền bởi muỗi Aedes aegypti, loài muỗi cũng truyền virus sốt xuất huyết và chikungunya. Loài muỗi này được tìm thấy ở nhiều nơi ở Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ và các đảo Thái Bình Dương. Đã có sự lây lan nhanh chóng của virus và bệnh liên quan ở người kể từ năm 2015, mặc dù đợt bùng phát đầu tiên được báo cáo vào năm 2007. Do đó, vẫn còn nhiều điều về virus và tác động của nó chưa được hiểu rõ.

Năm 2017, một hướng dẫn lâm sàng chung của RCOG/RCM/PHE/HPS, ‘Nhiễm virus Zika và Thai kỳ’, đã được xuất bản để giúp các chuyên gia chăm sóc sức khỏe.

Phần lớn các trường hợp nhiễm virus Zika là do muỗi nhiễm bệnh đốt; tuy nhiên, một vài trường hợp lây truyền qua đường tình dục và một số qua truyền máu đã được báo cáo. Hầu hết mọi người (80%) bị nhiễm virus Zika không có triệu chứng. Nếu các triệu chứng phát triển, chúng thường xuất hiện từ 3-12 ngày sau khi tiếp xúc. Những người có triệu chứng có một bệnh nhẹ, kéo dài (2-7 ngày) bao gồm phát ban, ngứa, sốt, nhức đầu, đau khớp, đau cơ, viêm kết mạc và đau lưng dưới. Các triệu chứng này tương tự như triệu chứng của sốt xuất huyết và chikungunya, và bệnh nhân nên được xét nghiệm cả ba sinh vật. Phụ nữ mang thai không dễ bị nhiễm bệnh hơn, cũng không bị bệnh nặng hơn. Các biến chứng nghiêm trọng ở người lớn do nhiễm virus Zika là hiếm gặp, mặc dù đã có báo cáo về sự gia tăng kích hoạt hội chứng Guillain-Barré. Virus Zika có thể được phát hiện bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR) máu trong vòng 1 tuần sau khi các triệu chứng phát triển. Điều này thường được thực hiện tại một phòng thí nghiệm chuyên khoa quốc gia. Việc xét nghiệm những phụ nữ không có triệu chứng thường không được khuyến nghị trừ khi có nghi ngờ về các biến chứng của thai nhi (xem phần sau).

Mối quan tâm chính trong thai kỳ là những ảnh hưởng của nhiễm virus Zika đối với thai nhi. Một số trường hợp lây truyền từ mẹ sang con đã được báo cáo.

Sau một đánh giá hệ thống tài liệu đến ngày 30 tháng 5 năm 2016, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã kết luận rằng nhiễm virus Zika trong thai kỳ là một nguyên nhân gây ra các bất thường não bẩm sinh. Các bất thường liên quan đến hội chứng Zika bẩm sinh (CZVS) bao gồm một loạt các bất thường sọ não (bao gồm đầu nhỏ với teo não, vôi hóa não, não thất to, nang quanh não thất, mắt nhỏ) và các bất thường ngoài sọ (bao gồm thai chậm tăng trưởng, thiểu ối, chân khoèo). Nguy cơ báo cáo về CZVS trong các thai kỳ dương tính với Zika đã thay đổi rộng rãi (6-46%). Không rõ liệu nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con có lớn hơn ở phụ nữ có triệu chứng hay không. Ở những phụ nữ không có bằng chứng về bất thường sọ não trên siêu âm, hiện tại không rõ liệu kết quả dương tính có dự đoán một bất thường của thai nhi sau đó hay không hoặc tỷ lệ trẻ sơ sinh sinh ra sau khi nhiễm bệnh sẽ có bệnh có triệu chứng là bao nhiêu.

Không có liệu pháp kháng virus cụ thể nào cho nhiễm virus Zika. Điều trị nói chung là hỗ trợ bao gồm nghỉ ngơi, bù dịch, thuốc giảm đau và hạ sốt. Ở một phụ nữ mang thai có bằng chứng xét nghiệm về virus Zika trong huyết thanh hoặc nước ối, các lựa chọn nên được thảo luận chi tiết với một chuyên gia về y học bào thai và một chuyên gia sơ sinh. Một số phụ nữ chọn chấm dứt thai kỳ ngay cả khi không có bất thường của thai nhi trên siêu âm. Những người khác sẽ chọn tiếp tục mang thai và siêu âm hàng loạt để theo dõi giải phẫu và sự tăng trưởng của thai nhi trong suốt phần còn lại của thai kỳ.

Mặc dù virus sống đã được phát hiện trong sữa mẹ, hiện tại không có bằng chứng nào cho thấy virus Zika có thể lây truyền cho trẻ sơ sinh qua sữa mẹ, và các bà mẹ được khuyên rằng không có chống chỉ định cho việc cho con bú. Hiện tại không có vắc-xin hoặc thuốc nào để ngăn ngừa nhiễm virus Zika. Phụ nữ mang thai được khuyến nghị hoãn các chuyến đi không cần thiết đến các khu vực có nguy cơ lây truyền virus Zika cao cho đến sau khi mang thai và xem xét điều tương tự đối với các khu vực có nguy cơ lây truyền virus Zika trung bình. Nếu phụ nữ mang thai đi đến các khu vực có nguy cơ cao hoặc trung bình, họ nên thực hiện tất cả các biện pháp phòng chống muỗi đốt cần thiết (quần áo sáng màu, rộng rãi che càng nhiều da càng tốt, thuốc chống côn trùng có chứa DEET và ngủ/nghỉ ngơi dưới màn chống muỗi) và được theo dõi và/hoặc xét nghiệm khi trở về. Cũng khuyến nghị rằng phụ nữ tránh mang thai bằng cách sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả khi đi du lịch ở khu vực có nguy cơ lây truyền virus Zika cao hoặc trung bình và trong ít nhất 6 tháng sau khi trở về.

Việc xét nghiệm những phụ nữ mang thai không có triệu chứng không được khuyến nghị khi không có phát hiện đầu nhỏ của thai nhi hoặc các bất thường nội sọ liên quan khác trên siêu âm, nhưng siêu âm thai hàng loạt được khuyến nghị.

Viêm bể thận cấp và nhiễm trùng đường tiết niệu

Vi khuẩn niệu không triệu chứng xảy ra ở 2-10% tất cả phụ nữ có hoạt động tình dục. Khi mang thai, 12-30% nhóm phụ nữ này sẽ phát triển viêm bể thận do nhiễm trùng ngược dòng do những thay đổi cấu trúc và miễn dịch của đường tiết niệu. Nếu vi khuẩn niệu được điều trị bằng kháng sinh, nguy cơ phát triển nhiễm trùng đường tiết niệu cấp tính ngược dòng sau này có thể được giảm thiểu. Tuy nhiên, khoảng 1% tất cả các thai kỳ bị biến chứng bởi một đợt viêm bể thận cấp. Sinh vật phổ biến là Escherichia coli, và điều này nên được điều trị tích cực bằng kháng sinh theo kháng sinh đồ đã biết. Hầu hết các bệnh nhiễm trùng mắc phải trong cộng đồng thường nhạy cảm với amoxicillin hoặc cefuroxime. Điều trị bổ sung bằng bù dịch, giảm đau và nghỉ ngơi tại giường cũng có thể có lợi. Viêm bể thận trong thai kỳ không được đánh giá thấp, vì hơn 15% phụ nữ sẽ phát triển nhiễm khuẩn huyết, với một tỷ lệ nhỏ trong số này tiến triển thành sốc nhiễm trùng và/hoặc chuyển dạ sinh non.

Bệnh lý huyết khối thuyên tắc

Huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch (VTE) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ ở các nước phát triển. VTE phổ biến hơn khoảng 10 lần trong thai kỳ so với khi không mang thai.
Nguyên nhân

Thai kỳ là một trạng thái tăng đông. Các yếu tố đông máu tăng lên, các chất chống đông nội sinh giảm và quá trình tiêu sợi huyết bị ức chế. Những tác động này bắt đầu trong ba tháng đầu và kéo dài cho đến vài tuần sau khi sinh. Ngoài ra, ứ trệ tĩnh mạch xảy ra ở chi dưới do chèn ép lên các mạch máu chậu, làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn.

Yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ có thể có từ trước khi mang thai, có thể xảy ra do các tình trạng sản khoa hoặc có thể là tạm thời. Chúng bao gồm:

  • yếu tố nguy cơ có từ trước:
    • tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị VTE
    • tăng đông, béo phì, hút thuốc lá, một số bệnh lý (như bệnh hồng cầu hình liềm), giãn tĩnh mạch nặng và tuổi mẹ cao
  • yếu tố nguy cơ tạm thời:
    • các đợt bất động và mất nước
    • quá kích buồng trứng
    • các thủ thuật phẫu thuật
  • yếu tố nguy cơ sản khoa:
    • đa thai
    • tiền sản giật
    • sinh có can thiệp
Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán

VTE biểu hiện như ở những người không mang thai: DVT với sưng và đau ở chân và thuyên tắc phổi (PE) với các triệu chứng hô hấp (khó thở và đau ngực kiểu màng phổi) hoặc trụy mạch. Trong thai kỳ, DVT có nhiều khả năng xảy ra ở bên trái (90%) do chèn ép tĩnh mạch chậu chung trái bởi động mạch chậu chung phải và động mạch buồng trứng (tĩnh mạch không bị chèn ép ở bên phải). Phần lớn các ca DVT trong thai kỳ xảy ra ở các tĩnh mạch chậu-đùi, do đó các triệu chứng ở chi dưới có thể không rõ ràng. Các cục máu đông ở tĩnh mạch chậu-đùi có nhiều khả năng gây thuyên tắc hơn so với các cục máu đông ở bắp chân.

Đo D-Dimer có ích lợi hạn chế trong thai kỳ; mặc dù giá trị tiên đoán âm tính cao, kết quả dương tính không giúp xác định chẩn đoán, vì nó có thể tăng theo những thay đổi sinh lý trong hệ thống đông máu xảy ra trong thai kỳ.

Các xét nghiệm hình ảnh học nên được thực hiện như ở người không mang thai. Siêu âm Doppler các tĩnh mạch chi dưới hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) các tĩnh mạch chậu nên được thực hiện để đánh giá DVT. Chụp cắt lớp vi tính (CT) xoắn ốc động mạch hoặc xạ hình tưới máu tĩnh mạch được sử dụng để chẩn đoán PE. Mặc dù cần phải cẩn thận khi thực hiện các xét nghiệm hình ảnh học trong thai kỳ do nguy cơ bức xạ đối với thai nhi, nhưng cuối cùng nếu một xét nghiệm cần được thực hiện để xác định chẩn đoán, thì nó nên được thực hiện.

Ảnh hưởng đến thai kỳ

Trước sinh, nếu VTE được điều trị đầy đủ, có rất ít ảnh hưởng trực tiếp đến mẹ hoặc thai nhi. Nếu một phụ nữ mang thai bị PE mà không được điều trị, thì có nguy cơ tử vong mẹ là 30%. Tuy nhiên, nếu người phụ nữ được điều trị kịp thời và thích hợp, nguy cơ tử vong đó giảm xuống còn 3-8%. Có những rủi ro bổ sung từ các loại thuốc được sử dụng để điều trị VTE (xem phần sau). Sau sinh, nguy cơ vẫn còn cao, và liệu pháp sẽ cần tiếp tục trong một vài tuần.

Xử trí

Tất cả phụ nữ nên được đánh giá nguy cơ cá nhân về VTE trong thai kỳ. Tùy thuộc vào điểm số nguy cơ, một kế hoạch dự phòng huyết khối có thể được lập ra để giảm nguy cơ xảy ra huyết khối. Đối với những phụ nữ có nguy cơ thấp, điều này có thể không cần các biện pháp bổ sung; đối với một số phụ nữ, có thể cần dự phòng sau sinh, và đối với những người có nguy cơ cao nhất, có thể khuyến nghị dự phòng trước sinh bằng vớ nén đàn hồi và heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH). Trong trường hợp cuối cùng này, dự phòng huyết khối nên được bắt đầu càng sớm càng tốt trong thai kỳ.

Nếu nghi ngờ VTE cấp tính trong thai kỳ, việc xử trí nhanh chóng là rất quan trọng, và liệu pháp heparin nên được bắt đầu theo kinh nghiệm trong khi chờ đợi các xét nghiệm.

Nếu DVT hoặc PE được loại trừ trong các xét nghiệm chẩn đoán tiếp theo (xem ở trên), thì heparin có thể được ngưng.

LMWH đã được sử dụng rộng rãi trong thai kỳ, vì nó không đi qua nhau thai và có hồ sơ an toàn tốt. Ngược lại, warfarin đi qua nhau thai và có liên quan đến bệnh lý phôi thai nếu được sử dụng trong ba tháng đầu và với chảy máu nội sọ của thai nhi khi được sử dụng trong Ba tháng cuối. Hầu hết phụ nữ bị VTE có thể được quản lý đầy đủ bằng LMWH, vì vậy warfarin hiếm khi cần thiết trong kịch bản này. Trong hầu hết các trường hợp, liệu pháp heparin có thể được tạm dừng vào khoảng thời gian sinh để giảm nguy cơ xuất huyết sau sinh và để cho phép gây tê vùng nếu cần (sử dụng LMWH có liên quan đến tụ máu ngoài màng cứng). Các biện pháp đơn giản như tránh mất nước và sử dụng vớ nén đàn hồi cũng nên được áp dụng.

Sau sinh, phụ nữ thường tiếp tục dùng heparin dự phòng hoặc điều trị trong 6 tuần. Nếu một biến cố huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch cấp tính đã xảy ra trong thai kỳ này, có khả năng sẽ cần dự phòng heparin trong các lần mang thai trong tương lai. Phụ nữ cũng nên được khuyên tránh các biện pháp tránh thai chứa estrogen.

Bệnh lý gan

Ứ mật sản khoa

Nguyên nhân

Nguyên nhân chính xác của ứ mật sản khoa vẫn chưa chắc chắn; tuy nhiên, dường như có một khuynh hướng di truyền về sự nhạy cảm với estrogen, gây ra những bất thường trong chức năng gan. Ngoài ra, người ta đã suy đoán rằng các yếu tố nội tiết, môi trường và chế độ ăn uống cũng có liên quan.

Yếu tố nguy cơ

Một số dân tộc nhất định (Nam Mỹ, Nam Á và Bắc Âu) và tiền sử ứ mật sản khoa là những yếu tố nguy cơ chính của ứ mật sản khoa.

Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán

Ứ mật sản khoa biểu hiện bằng ngứa dữ dội, đặc biệt là ở lòng bàn tay và lòng bàn chân trong ba tháng giữa hoặc thứ ba. Hiếm khi có phát ban liên quan đến ngứa, nhưng các vết trầy xước thường xuất hiện. Hiếm khi, phân nhạt màu, nước tiểu sẫm màu và vàng da được ghi nhận. Chẩn đoán được xác nhận bằng sự gia tăng axit mật và/hoặc tăng men gan khi đã loại trừ các bệnh lý khác (bệnh tự miễn, sỏi mật và nhiễm virus).

Một số phụ nữ gặp các triệu chứng tương tự khi dùng thuốc tránh thai kết hợp hoặc trong nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt.

Ảnh hưởng đến thai kỳ

Trước sinh, ngứa có thể làm suy nhược, gây ít nghỉ ngơi, đặc biệt là vào ban đêm. Tác động lên các chức năng gan khác có thể dẫn đến kéo dài thời gian đông máu. Đối với thai nhi, có một sự gia tăng nhỏ nguy cơ thai chết lưu. Nguy cơ sinh non cao hơn, nhưng điều này chủ yếu là do khởi phát chuyển dạ sớm. Ảnh hưởng đến chuyển dạ và sinh nở là tối thiểu, nhưng phân su có nhiều khả năng được thải ra ở những thai nhi non tháng bị ứ mật sản khoa.

Ứ mật sản khoa có tỷ lệ tái phát cao (trên 90%) trong các lần mang thai trong tương lai.

Xử trí

Ngứa do ứ mật sản khoa có thể khó điều trị. Các chất làm mềm da tại chỗ an toàn để sử dụng trong thai kỳ nhưng mang lại ít sự giảm nhẹ triệu chứng. Thuốc kháng histamin đôi khi được sử dụng vì khả năng gây ngủ của chúng nhưng ít có tác động đến bản thân cơn ngứa. Axit ursodeoxycholic đã được chứng minh là cải thiện cả ngứa và chức năng gan, nhưng dữ liệu an toàn lâu dài còn thiếu. Mặc dù vậy, đây là phương pháp điều trị chính trước sinh. Do nguy cơ tiềm ẩn của các bất thường đông máu, có thể sử dụng bổ sung vitamin K tan trong nước đường uống, đặc biệt đối với những phụ nữ có xét nghiệm đông máu cho thấy bất thường.

Cách tốt nhất để theo dõi thai nhi trước sinh vẫn chưa được xác định. Các phương pháp như siêu âm tăng trưởng hàng loạt và biểu đồ tim thai (CTG) có thể phát hiện các vấn đề về chức năng nhau thai không có giá trị tiên đoán đối với các thai nhi có nguy cơ trong ứ mật sản khoa. Do đó, việc sinh con sau khi thai nhi đã trưởng thành thường được khuyến nghị để giảm nguy cơ nhỏ của thai chết lưu muộn.

Sau sinh, phụ nữ thường được khuyên tránh các biện pháp tránh thai chứa estrogen, có thể gây tái phát các triệu chứng.

Gan nhiễm mỡ cấp tính trong thai kỳ

Nguyên nhân

Gan nhiễm mỡ cấp tính trong thai kỳ (AFLP) là một tình trạng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng của thai kỳ. Nguyên nhân không chắc chắn, nhưng nó có nhiều đặc điểm chung với tiền sản giật nặng và hội chứng HELLP (tan máu, tăng men gan và giảm tiểu cầu) và được cho là một biến thể của tiền sản giật. Gần đây đã có một gợi ý về mối liên quan của tình trạng này với một rối loạn oxy hóa axit béo di truyền lặn trong một số trường hợp.

Yếu tố nguy cơ

Mang thai lần đầu, đa thai và béo phì đều là những yếu tố nguy cơ.

Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán

AFLP thường biểu hiện trong Ba tháng cuối với các triệu chứng không đặc hiệu như buồn nôn, nôn, đau bụng và khó chịu chung. Vàng da cũng có thể xuất hiện, và phụ nữ có thể suy sụp nhanh chóng với suy gan, suy thận và rối loạn đông máu. Các xét nghiệm chức năng gan và thận thường bất thường, và có thể có hạ đường huyết.

Ảnh hưởng đến thai kỳ

Tình trạng này có liên quan đến tỷ lệ tử vong mẹ và thai nhi cao. Tử vong mẹ xảy ra thứ phát sau bệnh não gan, xuất huyết và đông máu nội mạch lan tỏa.

Xử trí

Phụ nữ có tiền sử AFLP trong lần mang thai trước nên được nhắc nhở về các triệu chứng và được cung cấp số điện thoại liên lạc khẩn cấp để sử dụng nếu chúng tái phát; theo dõi chức năng gan và xét nghiệm protein niệu nên được thực hiện thường xuyên.

Xử trí phải đa chuyên khoa với sự hỗ trợ từ các chuyên gia chăm sóc tích cực. Xử trí ban đầu là hỗ trợ để điều chỉnh các bất thường hiện có (mất cân bằng điện giải, hạ đường huyết và rối loạn đông máu). Khi người phụ nữ ổn định, việc sinh con nên được tiến hành nhanh chóng. Có thể cần lọc máu sau sinh; hiếm khi, cần ghép gan.

Thông tin về tỷ lệ tái phát rất ít do tình trạng này hiếm gặp nhưng cho thấy có khả năng tái phát tăng lên.

Các bệnh lý có từ trước và thai kỳ


Ngày càng có nhiều phụ nữ bước vào thai kỳ với các bệnh lý có từ trước. Lý tưởng nhất, những phụ nữ này nên được tư vấn tiền thụ thai để cho phép thảo luận về những ảnh hưởng của thai kỳ với tình trạng bệnh lý cụ thể của họ và lập kế hoạch. Điều này có thể bao gồm việc trì hoãn mang thai cho đến khi đạt được một mục tiêu cụ thể trong việc quản lý bệnh. Tuy nhiên, cơ hội này thường bị bỏ lỡ.

Bệnh lý thận trong thai kỳ

Các thai kỳ bị biến chứng bởi bệnh thận mạn tính là hiếm gặp (0,15%); tuy nhiên, chúng có liên quan đến nguy cơ đáng kể về kết quả bất lợi cho mẹ và thai nhi. Trong phần lớn các trường hợp, các nguy cơ và cách xử trí liên quan đến mức độ suy thận chứ không phải nguyên nhân cơ bản của bệnh thận.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Ở những phụ nữ bị bệnh thận mạn tính, thai kỳ có thể gây suy giảm chức năng thận. Hầu hết tình trạng này sẽ hồi phục sau khi kết thúc thai kỳ, nhưng đối với một số phụ nữ, điều này sẽ dẫn đến giảm chức năng thận vĩnh viễn và thời gian đến suy thận giai đoạn cuối ngắn hơn. Khả năng suy giảm chức năng thận phụ thuộc vào creatinine ban đầu như trong Bảng 9.4.

Bảng 9.4 Chức năng thận của mẹ và bệnh thận mạn tính trong thai kỳ

Creatinin huyết thanh (mmol/L) Mất >25% chức năng thận trong thai kỳ (%) Suy giảm chức năng thận sau sinh (%)
Suy thận nhẹ <125 2 0
Suy thận trung bình 124-168 40 20
Suy thận nặng >177 70 50

Dữ liệu từ Williams D, Davidson J. (2008) Chronic kidney disease in pregnancy. Br Med J 336:211-215.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Bệnh thận có liên quan đến nguy cơ tăng tiền sản giật, thai chậm tăng trưởng, sinh non và mổ lấy thai. Nguy cơ kết quả bất lợi liên quan đến mức độ suy thận, sự hiện diện của tăng huyết áp và sự hiện diện của protein niệu. Hầu hết phụ nữ bị suy thận nhẹ sẽ có kết quả tốt.

Xử trí

Phụ nữ bị bệnh thận mạn tính lý tưởng nên được khám tư vấn trước khi mang thai để thảo luận về những ảnh hưởng của một thai kỳ tiềm năng để có thể đưa ra quyết định sáng suốt. Đối với một số phụ nữ, nguy cơ suy giảm đến suy thận giai đoạn cuối và yêu cầu lọc máu sẽ quá lớn để thực hiện một thai kỳ.

Phụ nữ mang thai bị bệnh thận nên được chăm sóc tại các phòng khám đa chuyên khoa bao gồm bác sĩ sản khoa và bác sĩ chuyên khoa thận hoặc bác sĩ nội khoa sản. Đánh giá ban đầu nên bao gồm đánh giá chức năng thận ban đầu, huyết áp và protein niệu. Aspirin liều thấp (75 mg) từ 12 tuần cho đến khi sinh nên được đề nghị để giảm nguy cơ tiền sản giật. Phụ nữ đã điều trị tăng huyết áp có thể cần xem xét lại thuốc của họ để đảm bảo chúng an toàn khi sử dụng trong thai kỳ. Cần theo dõi cẩn thận huyết áp, chức năng thận và nhiễm trùng đường tiết niệu trong suốt thai kỳ. Siêu âm tăng trưởng nên được sắp xếp trong Ba tháng cuối để đánh giá sự tăng trưởng của thai nhi. Đối với phụ nữ có protein niệu, nên xem xét LMWH dự phòng để giảm nguy cơ VTE. Tất cả phụ nữ đều có nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu tăng; phụ nữ bị bệnh thận mạn tính và có nhiều hơn một lần nhiễm trùng đường tiết niệu được xác nhận có thể được hưởng lợi từ việc sử dụng kháng sinh dự phòng dài hạn.

Các trường hợp đặc biệt

Ngoài các cân nhắc chung, một số tình trạng thận cần có kế hoạch thêm. Ví dụ, bệnh thận đa nang là một tình trạng di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường, vì vậy phụ nữ bị ảnh hưởng bởi tình trạng này nên được tư vấn về nguy cơ di truyền cho con của họ.

Phụ nữ ghép thận thường có kết quả rất tốt trong thai kỳ. Nên tránh thụ thai (lên đến 12 tháng trong một số hướng dẫn) trong giai đoạn ngay sau khi ghép, khi nguy cơ thải ghép cao nhất và thuốc chống thải ghép đang được ổn định. Nhiều loại thuốc ức chế miễn dịch an toàn khi sử dụng trong thai kỳ, nhưng tư vấn trước khi mang thai là quan trọng để có thời gian thay đổi thuốc trong những trường hợp có nguy cơ gây quái thai.

Sỏi thận

Bệnh sỏi thận có triệu chứng không phổ biến hơn trong thai kỳ so với khi không mang thai. Siêu âm là xét nghiệm đầu tay để chẩn đoán nhưng nó có giá trị tiên đoán dương tính thấp (60%). MRI chính xác hơn và được coi là an toàn trong thai kỳ. Tuy nhiên, phụ nữ bị sỏi thận có tần suất nhiễm trùng đường tiết niệu tăng lên, và các bệnh nhiễm trùng như vậy nên được điều trị lâu hơn so với nhiễm trùng đường tiết niệu đơn lẻ ở phụ nữ không có sỏi thận. Bù dịch, kiềm hóa nước tiểu và giảm đau với xử trí bảo tồn nên là phương pháp điều trị đầu tay, vì điều này sẽ có xu hướng ngăn chặn sự kết tủa của axit uric và sỏi cystine. Phần lớn (>80%) sỏi tự trôi qua với các biện pháp bảo tồn. Trong các trường hợp không đáp ứng với phương pháp này, việc đặt stent đã được thực hiện thành công. Tuy nhiên, do thiếu dữ liệu toàn diện về sự an toàn, tán sỏi ngoài cơ thể bị chống chỉ định trong thai kỳ.

Đái tháo đường

Đái tháo đường là một trong những bệnh lý có từ trước phổ biến nhất mà phụ nữ gặp phải trong thai kỳ. Tỷ lệ phụ nữ mang thai bị đái tháo đường có từ trước là khoảng 0,4%. Phần lớn trong số này mắc đái tháo đường type 1; tuy nhiên, với những thay đổi về nhân khẩu học dân số, ngày càng có nhiều phụ nữ mắc đái tháo đường type 2. Phụ nữ mắc đái tháo đường type 2 có xu hướng lớn tuổi hơn, béo phì hơn và có nhiều thai kỳ không kế hoạch hơn so với phụ nữ mắc đái tháo đường type 1. Tỷ lệ biến chứng trong thai kỳ tương tự ở cả hai nhóm phụ nữ.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh
  • Tác động kháng insulin của các hormone nhau thai dẫn đến nhu cầu insulin lớn hơn trong thai kỳ. Phụ nữ phải tăng nhu cầu insulin lên đến ba lần để chống lại điều này. Những thay đổi này trở lại trạng thái trước khi mang thai trong vòng vài giờ sau khi sinh.
  • Nôn trong giai đoạn đầu thai kỳ có thể làm phức tạp cân bằng chế độ ăn uống và thuốc.
  • Thai kỳ có thể làm giảm các ‘dấu hiệu cảnh báo’ của hạ đường huyết.
  • Ở những phụ nữ có biến chứng của đái tháo đường, chẳng hạn như bệnh võng mạc và bệnh thận, thai kỳ có thể đẩy nhanh tiến trình của các biến chứng này.
Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ (Bảng 9.5)

Nhiều biến chứng gặp ở đái tháo đường thai kỳ cũng gặp ở những phụ nữ bị đái tháo đường có từ trước. Tuy nhiên, có những biến chứng bổ sung liên quan đến rối loạn cân bằng glucose bất thường trong giai đoạn quanh thụ thai và trong ba tháng đầu, cũng như các biến chứng liên quan đến bệnh mạch máu tiềm ẩn lâu dài ở những phụ nữ bị bệnh có từ trước.

Có nguy cơ dị tật bẩm sinh tăng lên ở những phụ nữ bị đái tháo đường có từ trước, đặc biệt là dị tật ống thần kinh và bệnh tim bẩm sinh. Khả năng xảy ra điều này liên quan đến mức độ kiểm soát đường huyết quanh thụ thai và trong giai đoạn đầu thai kỳ. Phụ nữ có HbA1c trên 10% có đến 25% khả năng bị dị tật thai nhi. Phụ nữ có nguy cơ mất thai tăng lên trong suốt thai kỳ, điều này một lần nữa liên quan đến việc kiểm soát đường huyết.

Mặc dù thai to là kiểu tăng trưởng thai nhi phổ biến nhất trong bệnh đái tháo đường, ở những phụ nữ có bệnh mạch máu từ trước và những người phát triển tiền sản giật sớm, thai chậm tăng trưởng có thể là một vấn đề.

Phụ nữ bị tăng huyết áp và/hoặc bệnh thận do đái tháo đường có nguy cơ cao phát triển tiền sản giật (khoảng 30%).

Bảng 9.5 Nguy cơ của đái tháo đường có từ trước trong thai kỳ

Mối lo ngại cho mẹ

Mối lo ngại cho thai/sơ sinh

Ba tháng đầu Tăng nhu cầu insulin Sẩy thai
Dị tật thai nhi
Ba tháng giữa
Ba tháng cuối
Tiền sản giật
Nhiễm trùng tái phát
Bệnh võng mạc nặng hơn nếu có bệnh mạch máu
Thai to
Đa ối
Thai chết lưu
Thai chậm tăng trưởng
Chuyển dạ Khởi phát chuyển dạ
Chuyển dạ kéo dài
Sinh non
Sinh Sinh có can thiệp
Sang chấn khi sinh
Mổ lấy thai
Kẹt vai
Hậu sản Trở về mức kiểm soát trước thai kỳ trong vòng vài giờ sau sinh Hạ đường huyết sơ sinh
Nhập viện đơn vị sơ sinh
Hội chứng suy hô hấp
Vàng da
Lâu dài Đái tháo đường ở thời thơ ấu (2-3% nếu mẹ bị type 1; 10-15% nếu mẹ bị type 2)
Xử trí
Tư vấn tiền thụ thai cho phụ nữ bị đái tháo đường có từ trước cho phép họ được thông báo về thai kỳ và đái tháo đường.

Tư vấn tiền thụ thai cũng cho phép phụ nữ xem xét thời điểm tốt nhất để cố gắng thụ thai. Vì nhiều biến chứng của đái tháo đường liên quan đến mức độ kiểm soát đường huyết, mục tiêu là đưa HbA1c xuống dưới 6,1% trước khi thụ thai. Nếu đạt được điều này, tỷ lệ biến chứng của thai kỳ ở phụ nữ bị đái tháo đường không cao hơn nhiều so với dân số bình thường. Thuốc có thể được xem xét lại. Insulin, cả loại truyền thống và các loại mới hơn, đã được chứng minh là an toàn trong thai kỳ. Metformin thường được tiếp tục, nhưng các thuốc hạ đường huyết đường uống khác thường được ngừng. Do đó, nhiều phụ nữ mắc đái tháo đường type 2 sẽ cần insulin trong thai kỳ. Tuy nhiên, một số loại thuốc được sử dụng để điều trị các biến chứng của đái tháo đường không an toàn. Ví dụ, thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE) được sử dụng trong điều trị bệnh thận do đái tháo đường nên được ngừng trong thai kỳ. Phụ nữ bị đái tháo đường nên dùng liều axit folic cao hơn trong giai đoạn quanh thụ thai (5 mg/ngày thay vì 400 μg/ngày bình thường) do nguy cơ dị tật ống thần kinh tăng lên.

Làm việc nhóm đa chuyên khoa là chìa khóa trong việc quản lý phụ nữ bị đái tháo đường. Các phòng khám đái tháo đường sản khoa thường bao gồm một bác sĩ sản khoa, bác sĩ nội tiết, y tá chuyên khoa đái tháo đường, chuyên gia dinh dưỡng và nữ hộ sinh chuyên khoa. Phụ nữ sẽ được đội ngũ này khám thường xuyên trong suốt thai kỳ.

Mục tiêu chuyển hóa trong thai kỳ là duy trì đường huyết càng gần phạm vi bình thường không đái tháo đường càng tốt trong khi tránh hạ đường huyết nặng. Điều này bao gồm việc tăng cường theo dõi đường huyết mao mạch và kiểm soát chặt chẽ hơn so với bình thường ngoài thai kỳ. Mức mục tiêu giống như được đưa ra trong phần về đái tháo đường thai kỳ (xem ở trên). Bởi vì phụ nữ được khuyến khích giữ kiểm soát glucose chặt chẽ, họ có thể trải qua các cơn hạ đường huyết khó chịu. Cần có các biện pháp khác nhau (chế phẩm glucose đường uống và/hoặc glucagon tiêm bắp (IM)) để đối phó với biến chứng này.

Đánh giá thai nhi về các bất thường bao gồm xét nghiệm kết hợp cho các vấn đề nhiễm sắc thể (nếu người mẹ muốn) trong ba tháng đầu và siêu âm giải phẫu định kỳ ở tuần 20. Đôi khi khuyến nghị siêu âm bổ sung để xem xét giải phẫu tim do nguy cơ bệnh tim bẩm sinh tăng lên. Siêu âm tăng trưởng hàng loạt thường xuyên có thể phát hiện cả thai to và thai chậm tăng trưởng.

Để đảm bảo sức khỏe của mẹ, aspirin liều thấp từ ba tháng giữa có thể làm giảm nguy cơ phát triển tiền sản giật. Ở những phụ nữ có bệnh mạch máu, cần cẩn thận để giữ huyết áp được kiểm soát tốt để giảm nguy cơ bệnh xấu đi. Tất cả phụ nữ bị đái tháo đường có từ trước nên được đánh giá mắt trong mỗi ba tháng thai kỳ để tìm bằng chứng về sự phát triển hoặc xấu đi của bệnh võng mạc do đái tháo đường.

Phụ nữ bị đái tháo đường nên sinh con tại bệnh viện có cơ sở sơ sinh. Kế hoạch sinh sẽ phụ thuộc vào sự ổn định của bệnh đái tháo đường trong thai kỳ, kích thước thai nhi và sức khỏe của mẹ và thai nhi; tuy nhiên, thường khuyến nghị sinh vào khoảng 38-39 tuần. Sinh ngả âm đạo thường được lên kế hoạch, nhưng tỷ lệ mổ lấy thai cao ở nhóm phụ nữ này. Nếu trọng lượng thai nhi ước tính là 4,5 kg hoặc hơn, nhiều người khuyến nghị mổ lấy thai chủ động. Thai nhi nên được theo dõi liên tục trong chuyển dạ. Cần cảnh giác với kẹt vai thứ phát sau thai to khi sinh ngả âm đạo. Trẻ sơ sinh có nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh. Nguy cơ này có thể được giảm bằng cách kiểm soát đường huyết nghiêm ngặt trong chuyển dạ, và thường cần truyền insulin-dextrose theo thang trượt để đạt được sự kiểm soát này ở những phụ nữ bị đái tháo đường có từ trước.

Sau sinh, phụ nữ trở lại chế độ điều trị trước khi mang thai ngay khi họ sinh xong và ăn uống.

Bệnh lý tuyến giáp trong thai kỳ

Các rối loạn tuyến giáp thuộc nhiều loại khác nhau làm phức tạp khoảng 2-5% các thai kỳ. Estrogen tăng trong thai kỳ bình thường dẫn đến tăng globulin gắn kết tuyến giáp, đòi hỏi phải tăng sản xuất hormone tuyến giáp để duy trì mức T4 và T3 tự do. Những thay đổi này, cùng với sự sụt giảm nồng độ iốt trong huyết tương của mẹ do tăng mất qua thận, dẫn đến sự phì đại của tuyến giáp từ 10-20%. Sự sụt giảm nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH) cũng là một đặc điểm của nửa đầu thai kỳ, có thể được giải thích bằng tác dụng kích thích tuyến giáp của gonadotropin màng đệm ở người.

Suy giáp

Suy giáp là vấn đề tuyến giáp phổ biến nhất xảy ra trong thai kỳ và làm phức tạp đến 5% các thai kỳ. Hầu hết các trường hợp có cơ sở là các bệnh tự miễn, trong đó các tự kháng thể như kháng thể kháng peroxidase tuyến giáp và những kháng thể liên quan đến bệnh Hashimoto gây phá hủy và xơ hóa tuyến. Suy giáp cũng có thể do thầy thuốc gây ra như là hậu quả của phẫu thuật cắt tuyến giáp, cắt bỏ bằng iốt phóng xạ hoặc liều thuốc kháng giáp quá mức.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh
Có ít ảnh hưởng của thai kỳ đối với suy giáp. Thường cần tăng liều điều trị thay thế.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ
Kết quả của mẹ và thai nhi xấu hơn với suy giáp rõ rệt. Hậu quả nghiêm trọng nhất nhưng hiếm gặp của suy giáp không được điều trị là hôn mê myxoedema (bao gồm hạ thân nhiệt, nhịp tim chậm, giảm phản xạ và thay đổi ý thức cùng với hạ natri máu, hạ đường huyết, thiếu oxy và tăng CO2 máu). Đây là một cấp cứu y tế với tỷ lệ tử vong 20%, đòi hỏi điều trị hỗ trợ và thay thế tuyến giáp. Phổ biến hơn, có nguy cơ tăng sẩy thai tự nhiên, tiền sản giật, tăng huyết áp do thai kỳ, xuất huyết sau sinh và cân nặng khi sinh thấp. Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây đã đặt câu hỏi về mối liên quan với bệnh tăng huyết áp trong thai kỳ. Có nguy cơ giảm nhẹ chỉ số IQ ở trẻ sơ sinh nhưng không có nguy cơ tăng dị tật bẩm sinh. Với sự thay thế đầy đủ, kết quả thai kỳ là tuyệt vời.

Xử trí

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp ở những phụ nữ này nên được thực hiện mỗi ba tháng thai kỳ bằng cách sử dụng các khoảng tham chiếu cụ thể cho thai kỳ, và liều thay thế nên được điều chỉnh khi nồng độ T4 giảm do sự gia tăng nồng độ dịch ngoại bào của mẹ. Chẩn đoán điều trị không đủ/suy giáp ở mẹ được thực hiện bằng nồng độ TSH tăng.

Khi suy giáp là thứ phát sau điều trị cường giáp ở mẹ, cần theo dõi sơ sinh để phát hiện rối loạn chức năng tuyến giáp sơ sinh, bản thân nó là thứ phát sau sự truyền qua nhau thai của các kháng thể thụ thể TSH.

Thiếu iốt ở nhiều quốc gia là bệnh lưu hành. Nếu không được điều trị, nó có liên quan đến kết quả thai nhi kém từ sẩy thai, thai chết lưu, tử vong sơ sinh và các dị tật bẩm sinh, bao gồm cả bệnh đần độn. Tất cả phụ nữ mang thai nên được khuyến khích đảm bảo lượng iốt đầy đủ trong thai kỳ, nếu cần thiết thông qua việc bổ sung. Khi người mẹ nhận được liệu pháp thay thế đầy đủ, kết quả cho trẻ sơ sinh là bình thường.

Cường giáp

Cường giáp xảy ra ở khoảng 0,2% các thai kỳ, 95% trong số đó là do bệnh Graves. Chẩn đoán được thực hiện bằng cách phát hiện nồng độ T4 và T3 tăng cao liên quan đến nồng độ TSH giảm.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Thai kỳ thường liên quan đến nhu cầu thyroxine tăng lên. Phụ nữ được điều trị cường giáp thường cần ít điều trị hơn trong thai kỳ; tuy nhiên, các đợt bùng phát sau sinh là phổ biến. Cường giáp không được điều trị có thể dẫn đến cơn bão giáp và suy tim trong thai kỳ với tỷ lệ tử vong 25%.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ
Cường giáp không kiểm soát có liên quan đến tỷ lệ tiền sản giật, thai chậm tăng trưởng, sinh non, thai chết lưu và cường giáp ở thai nhi cao hơn.

Cường giáp sơ sinh xảy ra ở 1% trẻ sơ sinh. Tình trạng này là tạm thời và do sự chuyển giao các kháng thể thụ thể TSH qua nhau thai.

Xử trí

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp nên được thực hiện mỗi 4-6 tuần và liệu pháp được điều chỉnh cho phù hợp. Nên sử dụng các khoảng tham chiếu cụ thể cho thai kỳ cho các xét nghiệm chức năng tuyến giáp. Hầu hết các loại thuốc kháng giáp đều an toàn trong thai kỳ, nhưng nên tìm kiếm lời khuyên chuyên môn từ một bác sĩ nội tiết.

Đo lường tăng trưởng hàng loạt và siêu âm để tìm bướu cổ thai nhi, cùng với việc đánh giá thường xuyên nhịp tim thai (tìm kiếm nhịp tim nhanh của thai nhi như một dấu hiệu của cường giáp thai nhi), là điều nên làm.

Việc điều chỉnh thuốc tuyến giáp của mẹ sẽ cần thiết sau khi sinh. Có thể cần phải ở lại bệnh viện sau sinh kéo dài để đánh giá trẻ sơ sinh về các dấu hiệu của cường giáp.

Béo phì

Tác động của béo phì trong thai kỳ đang ngày càng tăng. Tỷ lệ hiện mắc phụ thuộc vào dân số được phục vụ, mặc dù một cuộc khảo sát quốc gia ở Anh vào năm 2009 cho thấy trong 9,3 trên 100.000 ca sinh, phụ nữ có chỉ số khối cơ thể (BMI) hơn 50 (Hệ thống Giám sát Béo phì Vương quốc Anh). Phụ nữ béo phì thường cảm thấy bị kỳ thị; tuy nhiên, béo phì có liên quan đến các vấn đề y tế đáng kể trong thai kỳ phải được giải quyết. Phụ nữ béo phì có nhiều khả năng mắc các bệnh đồng mắc như tăng huyết áp, ngưng thở khi ngủ, đái tháo đường và bệnh tim mạch, tất cả đều có thể làm tăng thêm nguy cơ của thai kỳ.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với béo phì

Mức tăng cân tối ưu trong thai kỳ vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, ở phụ nữ béo phì, việc giảm thiểu tăng cân trong giai đoạn trước sinh là điều thận trọng.

Ảnh hưởng của béo phì đối với thai kỳ (Bảng 9.6)

Trước sinh, béo phì có liên quan đến một số biến chứng của mẹ và thai nhi. Trong ba tháng đầu, nguy cơ sẩy thai và dị tật bẩm sinh (đặc biệt là dị tật ống thần kinh) tăng lên, mặc dù nguyên nhân của điều này vẫn chưa được xác định. Trong suốt thai kỳ, có nguy cơ VTE tăng lên. Vào cuối thai kỳ, phụ nữ béo phì có nhiều khả năng phát triển tiền sản giật và đái tháo đường thai kỳ. Ngoài ra, nhiều biến chứng nhỏ của thai kỳ như trào ngược dạ dày-thực quản và rối loạn chức năng khớp mu có nhiều khả năng xảy ra ở những phụ nữ có chỉ số BMI tăng.

Béo phì có liên quan đến thai to; tuy nhiên, tình trạng mỡ của mẹ có thể có tác động đáng kể đến khả năng xác định chính xác kích thước thai nhi, cả về mặt lâm sàng và sử dụng siêu âm. Có nguy cơ thai chết lưu và tử vong sơ sinh tăng lên. Về lâu dài, con của các bà mẹ béo phì có nhiều khả năng bị béo phì ở trẻ em và đái tháo đường vị thành niên.

Phụ nữ béo phì có nhiều khả năng được khởi phát chuyển dạ, có tiến triển chuyển dạ kém và phải mổ lấy thai. Tỷ lệ sinh mổ cao hơn ở phụ nữ béo phì được cho là thứ phát sau sự kết hợp của thai to, các bệnh đồng mắc và tác động nội tiết của mô mỡ đối với chuyển dạ.

Các nguy cơ của mổ lấy thai, cả về gây mê và sản khoa, đều cao hơn ở những phụ nữ có chỉ số BMI cao hơn. Nếu sinh ngả âm đạo được thực hiện, kẹt vai và rách tầng sinh môn rộng thường xuyên hơn. Có nguy cơ xuất huyết sau sinh cao hơn.

Bảng 9.6 Nguy cơ của béo phì trong thai kỳ

Nguy cơ/biến chứng cho mẹ Nguy cơ/biến chứng cho thai/sơ sinh
Ba tháng đầu Huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch Sẩy thai
Dị tật thai nhi
Ba tháng giữa
Ba tháng cuối
Tiền sản giật
Đái tháo đường thai kỳ
Huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch
Thai to
Thai chết lưu
Khó khăn trong việc đánh giá thai nhi
Chuyển dạ Khởi phát chuyển dạ
Chuyển dạ kéo dài
Sinh Sinh có can thiệp
Mổ lấy thai
Sang chấn khi sinh (sinh ngả âm đạo và mổ lấy thai)
Biến chứng gây mê (khó đặt nội khí quản hoặc gây tê ngoài màng cứng)
Kẹt vai
Hậu sản Băng huyết sau sinh
Huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch
Nhập viện đơn vị sơ sinh
Tử vong sơ sinh
Lâu dài Béo phì thời thơ ấu
Đái tháo đường vị thành niên
Xử trí

Lý tưởng nhất, tư vấn tiền thụ thai sẽ cho phép phụ nữ hoãn mang thai cho đến khi đạt được chỉ số BMI gần bình thường, nhưng điều này hiếm khi xảy ra.

Phụ nữ béo phì nên được chăm sóc tại bệnh viện do các nguy cơ liên quan trong thai kỳ và khi sinh. Nên đề nghị hỗ trợ từ chuyên gia dinh dưỡng với mục tiêu đạt được chế độ ăn uống lành mạnh hơn là giảm cân. Axit folic nên được dùng cho đến 12 tuần. Một số cơ quan chức năng khuyến nghị liều cao hơn (5 mg) do nguy cơ dị tật ống thần kinh tăng lên, nhưng bằng chứng cho điều này còn thiếu. Cần thực hiện một đánh giá kỹ lưỡng về các yếu tố nguy cơ khác đối với tiền sản giật và VTE. Dựa trên điều này, aspirin để giảm nguy cơ tiền sản giật hoặc dự phòng huyết khối để giảm nguy cơ VTE có thể phù hợp. Nên đề nghị một OGTT để sàng lọc đái tháo đường thai kỳ vào cuối ba tháng giữa.

Hiệu quả của sàng lọc siêu âm định kỳ cho các dị tật bị giảm ở phụ nữ béo phì do hình ảnh kém. Hơn nữa, mặc dù các đánh giá lâm sàng về sự tăng trưởng của thai nhi bị hạn chế bởi thể trạng của mẹ, nhưng có rất ít bằng chứng cho thấy siêu âm cung cấp một đánh giá chính xác hơn, một lần nữa là do hình ảnh kém.

Do các biến chứng tiềm tàng của chuyển dạ và sinh nở, phụ nữ béo phì nên sinh con tại một đơn vị bệnh viện. Nếu không có chống chỉ định nào khác đối với sinh ngả âm đạo, đây nên là phương pháp được lên kế hoạch.

Tăng đông

Tăng đông có thể là di truyền hoặc mắc phải. Tăng đông di truyền được tìm thấy ở khoảng 15% dân số da trắng, phổ biến nhất là yếu tố V Leiden và đột biến gen prothrombin (yếu tố 2). Các tình trạng di truyền ít phổ biến hơn là thiếu hụt protein C, S và anti-thrombin. Tình trạng tăng đông mắc phải phổ biến nhất là hội chứng kháng phospholipid (APS) có liên quan đến một số kết quả bất lợi trong thai kỳ. Các tình trạng mắc phải khác là tiểu huyết sắc tố kịch phát về đêm và tăng tiểu cầu thiết yếu. Tăng đông chịu trách nhiệm cho 20-50% các biến cố huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch trong thai kỳ.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Thai kỳ là một trạng thái tăng đông, và do đó phụ nữ bị tăng đông có nguy cơ đặc biệt bị VTE trong thời gian này. Các loại tăng đông khác nhau có liên quan đến các mức độ nguy cơ đông máu khác nhau, và việc xử trí phải được cá nhân hóa cho phù hợp.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Tăng đông (cả di truyền và mắc phải) được biết là có liên quan đến các vấn đề sản khoa ngoài nguy cơ VTE của chúng. Ví dụ, ở những phụ nữ có yếu tố V Leiden, các mối liên quan với mất thai, tiền sản giật, nhau bong non và thai chậm tăng trưởng trong tử cung đều đã được mô tả. Các kết quả thai kỳ bất lợi, bao gồm sẩy thai tái phát, thai chết lưu và sinh non thứ phát sau bệnh lý nhau thai, là một phần của định nghĩa về APS.

Sàng lọc

Sàng lọc tăng đông nên được xem xét ở những phụ nữ có tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị VTE và những phụ nữ có tiền sử sản khoa kém như sẩy thai tái phát, thai chết lưu, tiền sản giật khởi phát sớm và nhau bong non. Tuy nhiên, các xét nghiệm sàng lọc được thực hiện trong thai kỳ có thể khó giải thích do những thay đổi bình thường trong hệ thống tạo máu. Lý tưởng nhất, những xét nghiệm này nên được thực hiện sau sinh sau một biến cố bất lợi (cho phép thời gian để giải quyết các thay đổi của thai kỳ) hoặc trong bối cảnh tư vấn tiền thụ thai.

Xử trí

Phụ nữ bị tăng đông lý tưởng nên được khám tại một phòng khám sản-huyết học kết hợp. Sự tham gia của một nhà huyết học là chìa khóa khi lập kế hoạch chăm sóc cho phổ rộng các rối loạn với các nguy cơ huyết khối và bệnh tật liên quan đến thai kỳ khác nhau của chúng. Một đánh giá đầy đủ về tất cả các yếu tố nguy cơ đối với VTE ngoài tình trạng tăng đông sẽ cho phép đưa ra quyết định về phương pháp dự phòng thích hợp: cho dù đó là LMWH trước và/hoặc sau sinh hay tránh mất nước và sử dụng vớ nén.

Như đã thảo luận trước đây, LMWH an toàn để sử dụng trong thai kỳ, nhưng cần cẩn thận để lên kế hoạch giảm hoặc tạm dừng việc sử dụng nó vào khoảng thời gian sinh để giảm thiểu nguy cơ chảy máu và đảm bảo rằng một phụ nữ có đầy đủ các lựa chọn giảm đau. Về các nguy cơ sản khoa khác của tăng đông, ngoại trừ APS, không rõ liệu điều trị bằng aspirin hoặc heparin có cải thiện kết quả thai kỳ hay không. Tuy nhiên, đối với phụ nữ bị APS, có một số bằng chứng cho thấy việc sử dụng aspirin (và có thể là heparin) làm giảm tỷ lệ biến chứng thai kỳ.

Theo dõi trong thai kỳ nên bao gồm cảnh giác với huyết khối và đột quỵ, tiền sản giật và đánh giá hàng loạt sự tăng trưởng của thai nhi và ghi Doppler động mạch rốn.

Động kinh

Động kinh ảnh hưởng đến khoảng 1 trên 100 dân số sản khoa.
Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh động kinh là khác nhau. Thông thường tần suất co giật không thay đổi, nhưng một số ít phụ nữ sẽ có nhiều cơn co giật hơn. Điều này được cho là do một số yếu tố, bao gồm không tuân thủ thuốc, căng thẳng và thiếu ngủ và nồng độ thuốc chống co giật thấp hơn thứ phát sau pha loãng máu.

Nồng độ thuốc chống động kinh thường giảm trong thai kỳ và tăng trong thời kỳ hậu sản, do đó liều lượng thuốc có thể cần được thay đổi để duy trì kiểm soát co giật.

Có một gợi ý rằng nguy cơ tử vong đột ngột không giải thích được trong bệnh động kinh tăng lên trong thai kỳ. Tuy nhiên, một lần nữa điều này có thể liên quan đến việc không tuân thủ thuốc hơn là một tác động cơ bản của thai kỳ.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Các loại thuốc chống động kinh khác nhau có tác dụng khác nhau đối với thai nhi. Natri valproate dường như có nguy cơ lớn nhất và nên tránh nếu có thể ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.

Ở những phụ nữ bị động kinh, có nguy cơ dị tật bẩm sinh cao hơn (3% so với 1-2% ở dân số chung); nguy cơ này tăng thêm nếu một phụ nữ đang dùng thuốc chống động kinh (4-9%). Các dị tật chính là dị tật ống thần kinh và dị tật tim.

Các nguy cơ khác của thai nhi tăng lên bao gồm tỷ lệ tử vong chu sinh, thai chậm tăng trưởng trong tử cung và các ảnh hưởng phát triển thần kinh lâu dài tinh vi hơn. Co giật co cứng-co giật và đặc biệt là trạng thái động kinh góp phần vào nguy cơ tử vong thai nhi tăng lên. Các nguy cơ này của thai nhi tăng thêm khi dùng nhiều hơn một loại thuốc chống động kinh. Carbamazepine, levetiracetam và lamotrigine được coi là những loại thuốc chống động kinh an toàn nhất để sử dụng trong thai kỳ. Một số loại thuốc chống co giật gây thiếu vitamin K có thể dẫn đến tăng nguy cơ bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh.

Xác suất có một đứa trẻ bị động kinh tăng lên nếu cha hoặc mẹ bị động kinh, khoảng 4-5%, nhưng tăng lên đến 20% nếu cả cha và mẹ đều bị ảnh hưởng.

Xử trí

Lý tưởng nhất là phụ nữ bị động kinh nên được khám tiền thụ thai để được tư vấn về các nguy cơ của họ trong thai kỳ và để xem xét lại thuốc của họ. Thuốc có thể cần được thay đổi, và đôi khi thích hợp để khuyên trì hoãn mang thai cho đến khi một chế độ thuốc ‘an toàn hơn’ được thiết lập. Phụ nữ nên được khuyên không nên đột ngột ngừng thuốc vì lo ngại về thai nhi, và cần nhấn mạnh rằng nguy cơ động kinh không kiểm soát được lớn hơn nguy cơ của các loại thuốc đang dùng. Mục tiêu chung trước và trong khi mang thai là dùng ít thuốc nhất với liều thấp nhất phù hợp với việc kiểm soát bệnh động kinh. Liều axit folic cao hơn 5 mg được khuyến nghị trong giai đoạn quanh thụ thai và trong ba tháng đầu do nguy cơ dị tật ống thần kinh tăng lên.

Phụ nữ nên được quản lý bởi một đội ngũ đa chuyên khoa với mục tiêu tránh co giật trong thai kỳ. Sàng lọc kết hợp cho các rối loạn nhiễm sắc thể và siêu âm giải phẫu có thể được thực hiện như bình thường. Có thể cần siêu âm tăng trưởng hàng loạt, đặc biệt nếu một phụ nữ đang dùng nhiều hơn một loại thuốc. Nếu đang dùng thuốc chống động kinh gây thiếu vitamin K, có thể cho mẹ dùng vitamin K trong vài tuần cuối của thai kỳ, và em bé có thể nhận vitamin K tiêm bắp ngay sau khi sinh để giảm nguy cơ bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh.

Mặc dù phụ nữ lo lắng về việc co giật xảy ra trong chuyển dạ, do sự mệt mỏi và căng thẳng liên quan, điều này không phổ biến, nhưng nên sinh con tại một đơn vị bệnh viện.

Phụ nữ bị động kinh nên được tư vấn trước sinh và sau sinh về các thực hành an toàn khi chăm sóc trẻ sơ sinh, chẳng hạn như không tắm cho em bé một mình và thay tã cho em bé trên sàn nhà thay vì trên bàn thay tã cao.

Cho con bú là an toàn cho phụ nữ dùng hầu hết các loại thuốc chống động kinh.

Đau nửa đầu

Đau đầu là tình trạng phổ biến trong thai kỳ. Phổ biến nhất là đau nửa đầu và đau đầu do căng thẳng. Đau đầu mới khởi phát, đặc biệt là những cơn đau liên quan đến các dấu hiệu thần kinh khu trú hoặc bất thường, suy giảm trí tuệ và đau làm ảnh hưởng đến giấc ngủ, cần được đánh giá chuyên khoa.

Ở những phụ nữ bị đau nửa đầu trước khi mang thai, tần suất các cơn đau giảm từ 50-80% trong thai kỳ, đặc biệt là trong Ba tháng cuối, nhưng lại tăng trở lại trong thời kỳ hậu sản. Nếu một cơn đau xảy ra, điều trị ban đầu bao gồm giảm đau đơn giản, tránh ánh sáng, nghỉ ngơi tại giường và các cơ chế đối phó khác nhau. Nếu các biện pháp đơn giản này không hiệu quả và cơn đau nửa đầu kéo dài, thì các thuốc giảm đau mạnh hơn, thuốc chẹn beta và/hoặc thuốc chống trầm cảm ba vòng đều đã được sử dụng thành công. Các dẫn xuất ergot thường được sử dụng để dự phòng/điều trị ngoài thai kỳ bị chống chỉ định trong thai kỳ do tác dụng co mạch của chúng.

Bệnh lý tim mạch

Đã có sự gia tăng lớn về bệnh tim trong thai kỳ trong những năm gần đây. Tỷ lệ hiện mắc chung của bệnh tim mạn tính làm phức tạp thai kỳ ở Hoa Kỳ hiện là 1,4%. Mặc dù một phần trong số này được giải thích bởi những phụ nữ bản thân họ đã bị bệnh tim bẩm sinh nay có con, phần lớn là mắc phải. Bệnh tim hiện là nguyên nhân chính gây tử vong mẹ gián tiếp ở Anh và Hoa Kỳ. Có thể gặp vô số các tình trạng tim mạch trong thai kỳ, bao gồm các tổn thương van tim, bệnh tim bẩm sinh, bệnh cơ tim, rối loạn nhịp tim và bệnh tim thiếu máu cục bộ.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Thai kỳ đặt một gánh nặng lớn lên hệ thống tim mạch của mẹ. Sự gia tăng cung lượng tim liên quan có thể dẫn đến sự suy giảm của một số tình trạng, chẳng hạn như hẹp van động mạch chủ, vì những phụ nữ này có cung lượng tim cố định. Trong các tình trạng khác, chẳng hạn như các tổn thương hở van, thai kỳ có thể được dung nạp tốt.

Nhiều triệu chứng của bệnh tim cũng là triệu chứng của thai kỳ, chẳng hạn như khó thở, đánh trống ngực và ngất; các dấu hiệu tim mạch cũng bị bắt chước bởi thai kỳ (mạch nảy, tiếng thổi tâm thu), và do đó có thể khó chẩn đoán một tình trạng tim mới hoặc sự suy giảm trong một tình trạng tim đã biết.

Tùy thuộc vào tình trạng tim cơ bản, phụ nữ có thể có nguy cơ trong thai kỳ đối với các tình trạng sau:

  • suy tim sung huyết
  • thiếu oxy nặng hơn
  • rối loạn nhịp tim và đột tử
  • viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
  • VTE
  • đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim
  • bóc tách động mạch chủ
Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Một lần nữa, những ảnh hưởng của bệnh tim đối với thai kỳ sẽ phụ thuộc vào vấn đề tim cụ thể. Tuy nhiên, các nguy cơ tăng lên bao gồm tiền sản giật, thai chậm tăng trưởng trong tử cung, sinh non và mất thai. Một số loại thuốc được dùng trong các tình trạng này, chẳng hạn như thuốc ức chế men chuyển ACE và warfarin, gây quái thai, và việc sử dụng chúng sẽ cần được xem xét lại để xem liệu có một phương án thay thế phù hợp hay không hoặc, trên cơ sở cân bằng, có nên tiếp tục dùng thuốc hay không. Ở những phụ nữ bị bệnh tim bẩm sinh, có nguy cơ tăng lên về tình trạng này ở con cái của họ lên đến 5%.

Xử trí

Quản lý đa chuyên khoa giữa các bác sĩ sản khoa, bác sĩ tim mạch và bác sĩ gây mê sản khoa lý tưởng nên bắt đầu ở giai đoạn tiền thụ thai với một cuộc thảo luận cẩn thận về các nguy cơ tiềm ẩn cho người phụ nữ và thai nhi. Đối với một số phụ nữ có tình trạng chức năng tim kém, mang thai có thể không được khuyến khích. Nguy cơ tử vong mẹ có thể cực kỳ cao trong một số tình trạng; ví dụ, ở những phụ nữ bị hội chứng Eisenmenger, tỷ lệ tử vong mẹ được mô tả là 40-50%. Nếu một phụ nữ quyết định mang thai, điều quan trọng là phải tối ưu hóa tình trạng y tế của cô ấy trước khi cô ấy thụ thai.

Mặc dù phân loại của Hiệp hội Tim mạch New York (NYHA) cung cấp một số thông tin về tiên lượng có thể xảy ra (Hộp 9.2), kế hoạch chăm sóc nên được cá nhân hóa. Trước sinh, các yếu tố gây căng thẳng như thiếu máu và nhiễm trùng nên được giảm thiểu. Thuốc có thể cần được thay đổi ở một số phụ nữ, và cũng có thể cần dùng thuốc chống đông máu. Theo dõi thai nhi nên bao gồm siêu âm tăng trưởng hàng loạt và đo Doppler, cũng như sàng lọc các dị tật tim. Theo dõi mẹ có thể bao gồm siêu âm tim thường xuyên.

Chuyển dạ là một thời điểm có vấn đề, và cần cố gắng giảm thiểu đau và đảm bảo cân bằng dịch được duy trì cẩn thận. Những thay đổi huyết động xảy ra trong giai đoạn ngay sau sinh có nghĩa là đây thường là thời điểm rủi ro nhất đối với phụ nữ bị bệnh tim, và việc theo dõi cẩn thận và quản lý chung của các đội ngũ sản khoa, tim mạch và gây mê là rất quan trọng.

Hộp 9.2 Phân loại của Hiệp hội Tim mạch New York (NYHA)

Độ 1: Khả năng gắng sức bình thường

Độ 2: Khó thở khi gắng sức vừa phải

Độ 3: Khó thở khi gắng sức ít hơn mức vừa phải Độ 4: Khó thở khi nghỉ ngơi không có hoạt động đáng kể

Loại I

Không có giới hạn về hoạt động thể chất; hoạt động thể chất thông thường không gây mệt mỏi, đánh trống ngực, khó thở hoặc đau thắt ngực quá mức

Loại II

Hạn chế nhẹ về hoạt động thể chất; hoạt động thể chất thông thường dẫn đến mệt mỏi, đánh trống ngực, khó thở hoặc đau thắt ngực

Loại III

Hạn chế rõ rệt về hoạt động thể chất; hoạt động ít hơn bình thường gây mệt mỏi, đánh trống ngực, khó thở hoặc đau thắt ngực

Loại IV

Không có khả năng thực hiện bất kỳ hoạt động thể chất nào mà không có khó chịu; các triệu chứng của suy tim hoặc hội chứng đau thắt ngực có thể có mặt, ngay cả khi nghỉ ngơi; bất kỳ hoạt động thể chất nào cũng làm tăng khó chịu

Bệnh lý hô hấp

Bệnh hô hấp, chủ yếu là hen suyễn, phổ biến trong thai kỳ. Giống như việc đánh giá bệnh tim, việc phân biệt những thay đổi sinh lý với những thay đổi bệnh lý có thể khó khăn vì phụ nữ cảm thấy khó thở (dyspnoea) tăng dần từ đầu thai kỳ và đạt đỉnh điểm vào tuần 30.

Hen suyễn

Hen suyễn là một rối loạn ngày càng phổ biến và có thể ảnh hưởng đến 5-10% phụ nữ mang thai.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh
Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh hen suyễn không thể đoán trước được, mặc dù khoảng một phần ba phụ nữ sẽ cải thiện, một phần ba sẽ trở nên tồi tệ hơn và một phần ba không thay đổi. Khoảng 10% phụ nữ bị hen suyễn sẽ có một đợt kịch phát cấp tính trong thai kỳ.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ
Phụ nữ bị hen suyễn được kiểm soát tốt có kết quả thai kỳ tốt, và không có tác động bất lợi nào được xác định của bệnh hen suyễn được kiểm soát tốt đối với thai kỳ. Ngược lại, phụ nữ bị hen suyễn kiểm soát kém hoặc những người có các đợt kịch phát nặng trong thai kỳ có nguy cơ cao bị thai chậm tăng trưởng, sinh non và tiền sản giật.

Xử trí

Các phép đo lưu lượng đỉnh ban đầu nên được thực hiện vào đầu thai kỳ. Phụ nữ nên được khuyến khích tiếp tục dùng thuốc hen suyễn của họ, vì một số lượng đáng kể các đợt kịch phát là do ngừng thuốc vì lo ngại về các tác động có thể có đối với thai nhi. Hầu hết các loại thuốc hen suyễn đều an toàn trong thai kỳ (bao gồm cả liệu pháp steroid), mặc dù có ít thông tin hơn về một số liệu pháp mới hơn. Việc xử trí các đợt kịch phát cấp tính của bệnh hen suyễn trong thai kỳ cũng giống như ở những người không mang thai bị hen suyễn.

Xơ nang

Mặc dù xơ nang (CF) cuối cùng là một căn bệnh gây tử vong, tuổi thọ của một người bị CF đã tăng lên đáng kể trong 30 năm qua do chẩn đoán sớm và những cải tiến trong điều trị. Tỷ lệ mắc CF là 0,05-0,1% các ca sinh ở các quần thể da trắng trong đó 5% người lớn mang gen lặn. Tuổi thọ tăng đã tạo cơ hội cho phụ nữ bị CF xem xét việc mang thai. Do đó, phụ nữ bị CF chiếm 0,4-0,8% các thai kỳ ở Hoa Kỳ và Anh, với tới 80% đạt được một ca sinh sống.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh
Mặc dù thai kỳ có thể được dung nạp tốt, nhiều phụ nữ gặp khó khăn vì ảnh hưởng đến chức năng phổi có thể không thể đoán trước và việc duy trì dinh dưỡng đầy đủ có thể có vấn đề. Các nguy cơ của thai kỳ liên quan đến mức độ rối loạn chức năng phổi và tăng áp phổi liên quan. Ở những phụ nữ có chức năng phổi ban đầu kém (FEV1 <50%), sự suy giảm đáng kể có thể xảy ra trong thai kỳ có thể không thể đảo ngược.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Là một tình trạng di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường, có nguy cơ lây truyền bệnh cho trẻ sơ sinh. Có thể đề nghị chẩn đoán trước sinh. Có nguy cơ tăng đái tháo đường thai kỳ do xơ hóa trong tuyến tụy. Khoảng một phần ba trẻ sơ sinh của phụ nữ bị CF sẽ sinh non. Thai chậm tăng trưởng có thể là một vấn đề ở những người có tình trạng dinh dưỡng kém.

Xử trí

Lý tưởng nhất là các thai kỳ nên được lên kế hoạch và tìm kiếm lời khuyên trước khi mang thai. Điều này bao gồm tư vấn di truyền, tối ưu hóa điều trị chức năng phổi và đường tiêu hóa và đánh giá tăng áp phổi. Áp lực phổi tăng đáng kể có liên quan đến tỷ lệ tử vong mẹ cao, và nên tránh mang thai.

Nên dùng folate liều cao (5 mg/ngày) trong giai đoạn quanh thụ thai để giảm nguy cơ dị tật thai nhi.

Chăm sóc đa chuyên khoa là cần thiết, bao gồm các bác sĩ sản khoa, bác sĩ hô hấp và bác sĩ gây mê sản khoa. Các xét nghiệm chức năng phổi nên được thực hiện vào đầu thai kỳ và lặp lại theo các triệu chứng. Hỗ trợ dinh dưỡng là bắt buộc, và các chuyên gia dinh dưỡng nên có thể tư vấn về các chất bổ sung cần thiết. Nhiễm trùng ngực nên được điều trị kịp thời.

Phụ nữ nên được sàng lọc đái tháo đường thai kỳ bằng OGTT. Sự tăng trưởng của thai nhi nên được theo dõi, và cần duy trì cảnh giác đối với chuyển dạ sinh non.

Việc sinh con nên diễn ra trong một môi trường có khả năng tiếp cận chăm sóc phụ thuộc cao và chăm sóc hô hấp nếu cần. Có thể cần mổ lấy thai dưới gây tê vùng đối với tình trạng suy hô hấp nặng.

Bệnh tự miễn

Bệnh tự miễn phổ biến hơn ở phụ nữ gấp năm lần so với nam giới. Lupus ban đỏ hệ thống (SLE), xơ cứng bì, APS và các rối loạn tuyến giáp tự miễn (đã thảo luận ở trên) đều có thể có ảnh hưởng đến chức năng nhau thai và dẫn đến sẩy thai, thai chậm tăng trưởng, tiền sản giật nặng khởi phát sớm, huyết khối và thai chết lưu. Một số tình trạng tự miễn, chẳng hạn như viêm khớp dạng thấp và bệnh Crohn, cải thiện trong môi trường steroid thay đổi của thai kỳ, nhưng có nguy cơ tái phát nghiêm trọng trong thời kỳ hậu sản.

Lupus ban đỏ hệ thống

SLE là một rối loạn đa hệ thống được đặc trưng bởi các giai đoạn tái phát và thuyên giảm. Chẩn đoán SLE phụ thuộc vào việc tìm thấy kháng thể kháng nhân (ANA) trong huyết thanh và ít nhất 4 trong số 11 tiêu chí lâm sàng hoặc xét nghiệm khác do Hiệp hội Thấp khớp học Hoa Kỳ công bố, bao gồm phát ban, suy thận, viêm khớp và giảm tiểu cầu.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Có một số bằng chứng cho thấy các đợt tái phát xảy ra thường xuyên hơn trong thai kỳ, và chắc chắn có sự gia tăng các ‘đợt bùng phát’ hoặc các đợt kịch phát trong giai đoạn sau sinh. Khoảng 75% bệnh nhân có bệnh thận. Phụ nữ bị đợt kịch phát của viêm thận lupus có nguy cơ suy giảm chức năng thận có thể không thể đảo ngược trong thai kỳ (xem phần trước về các bệnh thận mạn tính).

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Phụ nữ bị SLE có nguy cơ cao bị sẩy thai sớm, thai chết lưu, tiền sản giật khởi phát sớm, thai chậm tăng trưởng và sinh non. Khả năng xảy ra những điều này tăng lên nếu họ có tổn thương thận hoặc nếu họ cũng bị APS.

Phụ nữ, đặc biệt là những người bị APS cùng với SLE, có nguy cơ VTE tăng lên.

Trẻ sơ sinh có nguy cơ bị lupus sơ sinh và block tim bẩm sinh.

Xử trí

Phụ nữ nên được quản lý bởi một đội ngũ đa chuyên khoa với cơ hội tư vấn trước khi mang thai. Kết quả tốt hơn nếu tránh mang thai cho đến ít nhất 6 tháng sau một ‘đợt bùng phát’.

Phụ nữ nên được khuyên dùng aspirin liều thấp để giảm nguy cơ tiền sản giật, và LMWH nên được sử dụng thêm khi có APS đồng thời.

Bệnh nên được theo dõi bằng cách xem xét triệu chứng và đánh giá thường xuyên các dấu hiệu bệnh, đặc biệt là chức năng thận và kháng thể kháng phospholipid. Ức chế miễn dịch có thể được tiếp tục ở những phụ nữ bị lupus nặng, mặc dù các tác nhân được sử dụng có thể cần phải thay đổi nếu gây quái thai.

Chuyển dạ thường được khởi phát ở tuần 37-38 để tránh các biến chứng huyết khối cuối thai kỳ.

Bệnh huyết sắc tố

Hội chứng hồng cầu hình liềm

Các rối loạn di truyền này liên quan đến những bất thường trong quá trình tổng hợp hemoglobin dẫn đến việc sản xuất hemoglobin S bất thường. Phổ bệnh có thể từ đặc điểm hồng cầu hình liềm tương đối không có triệu chứng, trong đó phụ nữ dị hợp tử đối với gen hồng cầu hình liềm, đến bệnh hồng cầu hình liềm đồng hợp tử, trong đó phụ nữ có thể có các cơn khủng hoảng hồng cầu hình liềm thường xuyên. Mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với một số dân tộc nhất định, đặc biệt là những người từ châu Phi cận Sahara và Trung Đông, hội chứng hồng cầu hình liềm hiện được thấy trên toàn thế giới.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Các biến chứng thai kỳ như buồn nôn và nôn, thiếu máu và nhiễm trùng đều có thể làm tăng khả năng xảy ra cơn khủng hoảng hồng cầu hình liềm ở những phụ nữ bị bệnh hồng cầu hình liềm, và do đó thai kỳ có thể dẫn đến tăng tần suất các cơn khủng hoảng.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ

Các ảnh hưởng di truyền của hội chứng hồng cầu hình liềm phụ thuộc vào tình trạng của người bạn đời, và do đó nên khuyến nghị xét nghiệm sớm cho người bạn đời. Tùy thuộc vào kết quả này, phụ nữ có thể cần sự tham gia của đội ngũ di truyền để xác định xem họ có muốn tiến hành chẩn đoán trước sinh hay không.

Phụ nữ có đặc điểm hồng cầu hình liềm thường có kết quả tốt trong thai kỳ, mặc dù thiếu máu và nhiễm trùng có thể là một vấn đề. Ngược lại, bệnh hồng cầu hình liềm có liên quan đến các biến chứng sản khoa đáng kể, bao gồm tăng nguy cơ sẩy thai, sinh non, thai chậm tăng trưởng và tử vong chu sinh. Cũng có những nguy cơ tăng lên cho mẹ về VTE, xuất huyết trước sinh và tiền sản giật.

Xử trí

Trước khi mang thai, phụ nữ và bạn đời của họ nên được tư vấn về các nguy cơ trong thai kỳ. Họ cũng nên được khuyên không nên thụ thai cho đến khi việc quản lý bệnh được tối ưu hóa.

Nên có sự chăm sóc chung giữa các bác sĩ sản khoa và huyết học. Phụ nữ có bạn đời cũng mang gen hồng cầu hình liềm có thể được đề nghị chẩn đoán trước sinh nếu muốn. Tất cả phụ nữ bị hội chứng hồng cầu hình liềm nên được khuyên dùng liều axit folic cao hơn (5 mg) để giảm nguy cơ dị tật ống thần kinh, vì bệnh thiếu máu tan máu của họ làm tăng nguy cơ thiếu folate. Ở những phụ nữ bị bệnh hồng cầu hình liềm, nên xem xét dùng aspirin liều thấp để giảm nguy cơ tiền sản giật và kháng sinh dự phòng để giảm nguy cơ nhiễm trùng. Nên thực hiện siêu âm tăng trưởng hàng loạt để tìm bằng chứng về các vấn đề tăng trưởng. Thiếu máu có thể trở nên tồi tệ hơn trong thai kỳ, và có thể cần truyền máu để duy trì mức hemoglobin đầy đủ. Nếu các cơn khủng hoảng xảy ra, chúng nên được điều trị kịp thời để giảm nguy cơ cho thai nhi.

Trong thai kỳ và chuyển dạ, nên tránh mất nước, và nhu cầu dự phòng VTE nên được đánh giá thường xuyên tùy thuộc vào sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ khác.

Bệnh Thalassemia

Những rối loạn này có liên quan đến việc giảm tốc độ sản xuất các chuỗi globin alpha và beta của hemoglobin. Trong alpha-thalassemia, mức độ suy giảm phụ thuộc vào số lượng gen globin alpha bị thiếu, với một gen bị thiếu gây ra các triệu chứng tối thiểu và bốn gen bị thiếu không tương thích với sự sống. Hầu hết phụ nữ bị alpha-thalassemia mang thai sẽ thiếu một hoặc hai gen alpha và sẽ bị thiếu máu nhẹ. Trong beta-thalassemia, các cá nhân có thể là đồng hợp tử hoặc dị hợp tử, một lần nữa dẫn đến một phổ các triệu chứng. Phụ nữ bị beta-thalassemia đồng hợp tử hiếm khi mang thai; tuy nhiên, phụ nữ bị beta-thalassemia dị hợp tử có các triệu chứng tối thiểu và không bị suy giảm khả năng mang thai.

Ảnh hưởng của thai kỳ đối với bệnh

Thai kỳ có thể gây ra sự xấu đi đáng kể của tình trạng thiếu máu nhẹ thấy ở nhiều phụ nữ bị thalassemia.

Ảnh hưởng của bệnh đối với thai kỳ và xử trí

Ảnh hưởng chính của bệnh thalassemia đối với thai kỳ là nguy cơ di truyền các gen thalassemia. Xét nghiệm cho bạn đời sẽ xác định những phụ nữ có nguy cơ mang thai nhi đồng hợp tử, sau đó có thể được chuyển đến để xét nghiệm trước sinh. Thiếu máu có vấn đề có thể cần được điều trị bằng truyền máu trong thai kỳ. Liệu pháp sắt phải được sử dụng thận trọng, vì phụ nữ có nguy cơ quá tải sắt. Sự phát triển của thai nhi nên được theo dõi vì nguy cơ thai chậm tăng trưởng.

Kết luận

Điều cần thiết là phải có một khuôn khổ để xem xét những ảnh hưởng của các bệnh lý trong thai kỳ đối với cả người phụ nữ và thai nhi. Những tình trạng như vậy hiện nay chịu trách nhiệm cho số lượng tử vong mẹ ngày càng tăng, và sự hiểu biết đầy đủ là điều cần thiết nếu xu hướng này được đảo ngược.

 

TÓM TẮT Ý CHÍNH


Những than phiền nhỏ trong thai kỳ

  • Đây thường là do những thay đổi sinh lý trong thai kỳ, nhưng điều quan trọng là phải đảm bảo không có nguyên nhân bệnh lý.

Thiếu máu

  • Ở Anh, tình trạng này được định nghĩa là mức huyết sắc tố (haemoglobin) <11 g/dL (một số tài liệu sử dụng <10,5 g/dL), đặc biệt là vào đầu tam cá nguyệt thứ ba.
  • Thường do:
    • Bổ sung không đủ sắt qua chế độ ăn uống.
    • Suy giảm hấp thu sắt (vô toan dịch vị, suy dinh dưỡng, tiêu chảy mạn tính, nhiễm giun móc).
  • Xét nghiệm – Thể tích trung bình hồng cầu (MCV), Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC), sắt huyết thanh và khả năng gắn sắt, ferritin, folate và vitamin B; các xét nghiệm khác nếu nguyên nhân vẫn chưa rõ ràng.
  • Điều trị, thường bằng sắt/axit folic đường uống.

Đái tháo đường

  • Phân loại thành type 1, type 2 hoặc đái tháo đường thai kỳ.
  • Cần quản lý chặt chẽ, với mục tiêu giữ đường huyết mao mạch trong phạm vi của người không mắc đái tháo đường.
  • Quản lý bằng chế độ ăn và insulin (type 1); chế độ ăn, thuốc hạ đường huyết đường uống/insulin (type 2); chế độ ăn ± thuốc hạ đường huyết đường uống/insulin (đái tháo đường thai kỳ).

Nhiễm trùng mắc phải trong thai kỳ

  • Một số bệnh nhiễm trùng trong thai kỳ có thể ảnh hưởng xấu đến mẹ và thai nhi, mặc dù không phải lúc nào mức độ nghiêm trọng cũng như nhau.
  • Sự lây truyền HIV từ mẹ sang con có thể được giảm thiểu bằng liệu pháp kháng retrovirus trong thai kỳ. Nếu virus vẫn còn phát hiện được vào cuối thai kỳ, khuyến cáo nên sinh mổ chủ động.
  • Chiến lược quản lý chính ở phụ nữ bị viêm gan A, B hoặc C là thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để ngăn ngừa lây truyền từ mẹ sang con, mặc dù sinh mổ chủ động dường như không giúp ích cho việc này.
  • Nguy cơ chính của bệnh lao trong thai kỳ là đối với sức khỏe của người phụ nữ. Lây truyền qua nhau thai rất hiếm. Streptomycin là loại thuốc chống lao duy nhất bị chống chỉ định.
  • Nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng và có triệu chứng là các bệnh nhiễm trùng phổ biến trong thai kỳ, cần được nhận biết và điều trị kịp thời để ngăn ngừa tiến triển thành viêm bể thận.
  • Một số bệnh nhiễm trùng có thể được ngăn ngừa bằng cách tiêm chủng trước đó (chẳng hạn như rubella), và một số có thể được điều trị hiệu quả trong thai kỳ.
  • Đối với các bệnh khác (chẳng hạn như nhiễm virus Zika), không có phương pháp điều trị hiệu quả, và cách tiếp cận tốt nhất là tránh nhiễm bệnh trong thai kỳ.

Bệnh huyết khối tắc mạch

  • Đây là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong ở mẹ.
  • Tiền sử mắc bệnh và các bệnh di truyền có tăng đông máu làm tăng nguy cơ.
  • Mọi sản phụ nên được đánh giá nguy cơ trong giai đoạn trước sinh, trong quá trình chuyển dạ và sau sinh, và cần thực hiện các biện pháp dự phòng (đặc biệt là sử dụng LMWH).
  • Nếu nghi ngờ có huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) hoặc thuyên tắc phổi (PE) trên lâm sàng, nên bắt đầu điều trị chống đông máu toàn phần cho đến khi có kết quả xét nghiệm. Nếu chẩn đoán không được xác nhận, việc điều trị sẽ được dừng lại.

Bệnh gan

  • Ứ mật trong sản khoa có nguyên nhân không chắc chắn. Nó gây ngứa dữ dội ở lòng bàn tay và lòng bàn chân của phụ nữ.
  • Bệnh này có liên quan đến nguy cơ tử vong thai nhi tăng lên, và thường khuyến cáo sinh chủ động ở tuần 37-38 để giảm nguy cơ đó.

Bệnh thận

  • Bệnh thận mạn tính từ trung bình đến nặng thường trở nên tồi tệ hơn trong thai kỳ và có thể không cải thiện sau khi sinh.
  • Bệnh thận gây ra tỷ lệ gia tăng tình trạng thai chậm tăng trưởng trong tử cung, sinh non và tử vong chu sinh.
  • Cần có sự quản lý đa chuyên khoa để tối ưu hóa kết quả cho mẹ và thai nhi.

Bệnh tuyến giáp

  • Suy giáp thường là do bệnh tự miễn hoặc do điều trị (sau phẫu thuật cắt tuyến giáp). Thiếu iốt ít phổ biến hơn. Mức TSH tăng cao là dấu hiệu chẩn đoán, và hiệu quả của việc điều trị bằng thyroxine nên được theo dõi bằng mức TSH.
  • Cường giáp trong thai kỳ thường do bệnh Graves. Nó có thể gây ra cân nặng khi sinh thấp, chuyển dạ và sinh non. Điều trị bằng thuốc kháng giáp.

Béo phì

  • Lý tưởng nhất là phụ nữ béo phì nên hoãn việc mang thai cho đến khi họ đạt được chỉ số BMI tối ưu.
  • Phụ nữ béo phì nên được chăm sóc tại bệnh viện do các nguy cơ gia tăng.
  • Nên tiến hành sàng lọc đái tháo đường thai kỳ và sự phát triển quá mức của thai nhi.
  • Cần có sự chuẩn bị đặc biệt cho việc sinh mổ (ví dụ: bàn mổ lớn).

Động kinh

  • Một số ít phụ nữ có sự gia tăng tần suất co giật trong thai kỳ.
  • Tất cả các loại thuốc chống động kinh đều được báo cáo là có khả năng gây quái thai, trong đó natri valproate dường như có nguy cơ cao nhất. Tuy nhiên, những nguy hiểm của bệnh động kinh còn lớn hơn những rủi ro của việc điều trị.
  • Ưu tiên chính trong thai kỳ là ngăn ngừa co giật với số lượng thuốc ít nhất và ở liều lượng hiệu quả thấp nhất.

Bệnh tim

  • Các rủi ro cho mẹ và thai nhi thay đổi tùy theo chẩn đoán.
  • Phân loại của Hiệp hội Tim mạch New York (NYHA) cho biết mức độ nghiêm trọng của bệnh tim ở phụ nữ, mặc dù một số triệu chứng của bệnh tim cũng là những than phiền sinh lý bình thường trong thai kỳ.
  • Việc theo dõi và quản lý nên được thực hiện bởi một đội ngũ đa chuyên khoa và được cá nhân hóa.

Bệnh hô hấp

  • Hen suyễn
    • Bệnh này phổ biến trong thai kỳ và thường không bị làm nặng thêm bởi thai kỳ.
    • Một số triệu chứng là những than phiền bình thường trong thai kỳ.
    • Nên đo lưu lượng đỉnh ban đầu vào đầu thai kỳ.
    • Điều trị cho cả các cơn cấp tính và duy trì liên tục đều giống như đối với người không mang thai và được coi là an toàn.
  • Xơ nang
    • Mặc dù là một tình trạng không phổ biến, nó có liên quan đến nguy cơ gia tăng cho mẹ và thai nhi.
    • Việc theo dõi và quản lý nên được thực hiện bởi một đội ngũ đa chuyên khoa và được cá nhân hóa.

Bảng chú giải thuật ngữ Y học Anh-Việt

STT Thuật ngữ tiếng Anh Phiên âm IPA Nghĩa Tiếng Việt
1 Maternal medicine /məˌtɜː.nəl ˈmed.ɪ.sən/ Y học bà mẹ
2 Aetiology /ˌiː.tiˈɒl.ə.dʒi/ Nguyên nhân học, bệnh căn
3 Risk factors /rɪsk ˈfæk.təz/ Yếu tố nguy cơ
4 Management /ˈmæn.ɪdʒ.mənt/ Quản lý, điều trị
5 Anaemia /əˈniː.mi.ə/ Thiếu máu
6 Gestational diabetes /dʒesˈteɪ.ʃən.əl ˌdaɪ.əˈbiː.tiːz/ Đái tháo đường thai kỳ
7 Infections /ɪnˈfek.ʃənz/ Nhiễm trùng
8 Thromboembolic disease /ˌθrɒm.bəʊ.emˈbɒl.ɪk dɪˈziːz/ Bệnh huyết khối tắc mạch
9 Liver disease /ˈlɪv.ə dɪˈziːz/ Bệnh gan
10 Clinical presentation /ˈklɪn.ɪ.kəl ˌprez.ənˈteɪ.ʃən/ Biểu hiện lâm sàng
11 Pre-existing medical conditions /ˌpriː.ɪɡˈzɪs.tɪŋ ˈmed.ɪ.kəl kənˈdɪʃ.ənz/ Bệnh lý có từ trước
12 Diabetes /ˌdaɪ.əˈbiː.tiːz/ Đái tháo đường
13 Obesity /əʊˈbiː.sə.ti/ Béo phì
14 Thrombophilias /ˌθrɒm.bəʊˈfɪl.i.əz/ Tình trạng tăng đông máu
15 Epilepsy /ˈep.ɪ.lep.si/ Động kinh
16 Thyroid disease /ˈθaɪ.rɔɪd dɪˈziːz/ Bệnh tuyến giáp
17 Cardiac disease /ˈkɑː.di.æk dɪˈziːz/ Bệnh tim
18 Respiratory disease /rɪˈspɪr.ə.tər.i dɪˈziːz/ Bệnh hô hấp
19 Renal disease /ˈriː.nəl dɪˈziːz/ Bệnh thận
20 Haemoglobinopathies /ˌhiː.mə.ɡləʊ.bɪˈnɒp.ə.θiz/ Bệnh về hemoglobin
21 Pre-conceptual counselling /ˌpriː.kənˈsep.ʃən.əl ˈkaʊn.səl.ɪŋ/ Tư vấn tiền thụ thai
22 Drug treatment /drʌɡ ˈtriːt.mənt/ Điều trị bằng thuốc
23 Clinical competencies /ˈklɪn.ɪ.kəl ˈkɒm.pɪ.tən.siz/ Năng lực lâm sàng
24 Minor complaints /ˈmaɪ.nə kəmˈpleɪnts/ Những than phiền nhỏ/thông thường
25 Abdominal pain /æbˈdɒm.ɪ.nəl peɪn/ Đau bụng
26 Heartburn /ˈhɑːt.bɜːn/ Ợ nóng, ợ chua
27 Constipation /ˌkɒn.stɪˈpeɪ.ʃən/ Táo bón
28 Backache /ˈbæk.eɪk/ Đau lưng
29 Syncope /ˈsɪŋ.kə.pi/ Ngất
30 Varicosities /ˌvær.ɪˈkɒs.ə.tiz/ Giãn tĩnh mạch
31 Carpal tunnel syndrome /ˈkɑː.pəl ˈtʌn.əl ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng ống cổ tay
32 Obstetric care /ɒbˈstet.rɪk keə/ Chăm sóc sản khoa
33 Maternal deaths /məˌtɜː.nəl deθs/ Tử vong mẹ
34 Venous thromboembolism (VTE) /ˈviː.nəs ˌθrɒm.bəʊˈem.bə.lɪ.zəm/ Huyết khối tĩnh mạch
35 Morbidity /mɔːˈbɪd.ə.ti/ Bệnh suất
36 Cystic fibrosis (CF) /ˈsɪs.tɪk faɪˈbrəʊ.sɪs/ Xơ nang
37 Infertility /ˌɪn.fəˈtɪl.ə.ti/ Vô sinh
38 Hypertension /ˌhaɪ.pəˈten.ʃən/ Tăng huyết áp
39 Framework /ˈfreɪm.wɜːk/ Khuôn khổ, hệ thống
40 Fertility /fəˈtɪl.ə.ti/ Khả năng sinh sản
41 Fetal/neonatal risks /ˈfiː.təl/ /ˌniː.əʊˈneɪ.təl rɪsks/ Nguy cơ cho thai/sơ sinh
42 Complications /ˌkɒm.plɪˈkeɪ.ʃənz/ Biến chứng
43 First/Second/Third trimester /fɜːst/ˈsek.ənd/θɜːd ˈtraɪ.mes.tər/ Tam cá nguyệt thứ nhất/hai/ba
44 Labour /ˈleɪ.bər/ Chuyển dạ
45 Delivery /dɪˈlɪv.ər.i/ Cuộc sinh, sự sinh nở
46 Postnatal /ˌpəʊstˈneɪ.təl/ Sau sinh
47 Medication issues /ˌmed.ɪˈkeɪ.ʃən ˈɪʃuːz/ Các vấn đề về thuốc
48 Physiological adaptations /ˌfɪz.i.əˈlɒdʒ.ɪ.kəl ˌæd.æpˈteɪ.ʃənz/ Thích ứng sinh lý
49 Pathological diseases /ˌpæθ.əˈlɒdʒ.ɪ.kəl dɪˈziːzɪz/ Bệnh lý (có nguyên nhân bệnh)
50 Ligaments /ˈlɪɡ.ə.mənts/ Dây chằng
51 Braxton Hicks contractions /ˈbræk.stən hɪks kənˈtræk.ʃənz/ Cơn gò Braxton Hicks
52 Gravid uterus /ˈɡræv.ɪd ˈjuː.tər.əs/ Tử cung mang thai
53 Ectopic pregnancy /ekˈtɒp.ɪk ˈpreɡ.nən.si/ Thai ngoài tử cung
54 Miscarriage /ˈmɪsˌkær.ɪdʒ/ Sảy thai
55 Gynaecological causes /ˌɡaɪ.nə.kəˈlɒdʒ.ɪ.kəl ˈkɔːzɪz/ Nguyên nhân phụ khoa
56 Ovarian torsion /əʊˈveə.ri.ən ˈtɔː.ʃən/ Xoắn buồng trứng
57 Urinary tract infection (UTI) /ˈjʊə.rɪ.nər.i trækt ɪnˈfek.ʃən/ Nhiễm trùng đường tiết niệu
58 Surgical causes /ˈsɜː.dʒɪ.kəl ˈkɔːzɪz/ Nguyên nhân ngoại khoa
59 Appendicitis /əˌpen.dɪˈsaɪ.tɪs/ Viêm ruột thừa
60 Pancreatitis /ˌpæŋ.kri.əˈtaɪ.tɪs/ Viêm tụy
61 Placental abruption /pləˈsen.təl əˈbrʌp.ʃən/ Nhau bong non
62 Domestic abuse /dəˈmes.tɪk əˈbjuːs/ Bạo hành gia đình
63 Analgesics /ˌæn.əlˈdʒiː.zɪks/ Thuốc giảm đau
64 Gastro-oesophageal reflux /ˌɡæs.trəʊ.iːˌsɒf.əˈdʒiː.əl ˈriː.flʌks/ Trào ngược dạ dày-thực quản
65 Gastric emptying /ˈɡæs.trɪk ˈemp.ti.ɪŋ/ Sự làm rỗng dạ dày
66 Lower oesophageal sphincter /ˈləʊ.ər iːˌsɒf.əˈdʒiː.əl ˈsfɪŋk.tər/ Cơ thắt thực quản dưới
67 Intragastric pressure /ˌɪn.trəˈɡæs.trɪk ˈpreʃ.ər/ Áp lực trong dạ dày
68 Pre-eclampsia /ˌpriː.ɪˈklæmp.si.ə/ Tiền sản giật
69 Acute fatty liver of pregnancy (AFLP) /əˈkjuːt ˈfæt.i ˈlɪv.ər əv ˈpreɡ.nən.si/ Gan nhiễm mỡ cấp tính trong thai kỳ
70 Gallstones /ˈɡɔːl.stəʊnz/ Sỏi mật
71 Conservative management /kənˈsɜː.və.tɪv ˈmæn.ɪdʒ.mənt/ Điều trị bảo tồn
72 Antacids /ænˈtæs.ɪdz/ Thuốc kháng axit
73 Histamine-receptor blockers /ˈhɪs.tə.miːn rɪˈsep.tə ˈblɒk.əz/ Thuốc chẹn thụ thể histamin
74 Ranitidine /rəˈnɪt.ɪ.diːn/ Ranitidin
75 Proton pump inhibitors (PPIs) /ˈprəʊ.tɒn pʌmp ɪnˈhɪb.ɪ.təz/ Thuốc ức chế bơm proton
76 Progesterone /prəˈdʒes.tə.rəʊn/ Progesterone (hoóc-môn)
77 Colonic motility /kəˈlɒn.ɪk məʊˈtɪl.ə.ti/ Nhu động đại tràng
78 Oral iron supplements /ˈɔː.rəl ˈaɪən ˈsʌp.lɪ.mənts/ Thuốc bổ sung sắt đường uống
79 Osmotic laxatives /ɒzˈmɒt.ɪk ˈlæk.sə.tɪvz/ Thuốc nhuận tràng thẩm thấu
80 Stimulant laxatives /ˈstɪm.jə.lənt ˈlæk.sə.tɪvz/ Thuốc nhuận tràng kích thích
81 Unstable lie /ʌnˈsteɪ.bəl laɪ/ Ngôi thai không ổn định
82 Lumbar lordosis /ˈlʌm.bə lɔːˈdəʊ.sɪs/ Chứng ưỡn cột sống thắt lưng
83 Pyelonephritis /ˌpaɪə.ləʊ.nəˈfraɪ.tɪs/ Viêm bể thận
84 Paracetamol /ˌpær.əˈsiː.tə.mɒl/ Paracetamol
85 Codeine /ˈkəʊ.diːn/ Codein
86 Non-steroidal anti-inflammatory drugs (NSAIDs) /ˌnɒn.stəˈrɔɪ.dəl ˌæn.ti.ɪnˈflæm.ə.tər.i drʌɡz/ Thuốc kháng viêm không steroid
87 Vasodilatation /ˌveɪ.zəʊ.daɪˈleɪ.ʃən/ Giãn mạch
88 Postural hypotension /ˈpɒs.tʃər.əl ˌhaɪ.pəʊˈten.ʃən/ Hạ huyết áp tư thế
89 Caval compression /ˈkeɪ.vəl kəmˈpreʃ.ən/ Chèn ép tĩnh mạch chủ
90 Supine hypotension /ˈsuː.paɪn ˌhaɪ.pəʊˈten.ʃən/ Hạ huyết áp tư thế nằm ngửa
91 Dehydration /ˌdiː.haɪˈdreɪ.ʃən/ Mất nước
92 Arrhythmias /əˈrɪð.mi.əz/ Loạn nhịp tim
93 Pelvic veins /ˈpel.vɪk veɪnz/ Tĩnh mạch chậu
94 Progestogenic effect /ˌprəʊ.dʒes.təʊˈdʒen.ɪk ɪˈfekt/ Tác dụng của progestogen
95 Thrombophlebitis /ˌθrɒm.bəʊ.fləˈbaɪ.tɪs/ Viêm tắc tĩnh mạch
96 Deep vein thrombosis (DVT) /diːp veɪn θrɒmˈbəʊ.sɪs/ Huyết khối tĩnh mạch sâu
97 Compression stockings /kəmˈpreʃ.ən ˈstɒk.ɪŋz/ Vớ nén (vớ y khoa)
98 Heparin prophylaxis /ˈhep.ə.rɪn ˌprɒf.ɪˈlæk.sɪs/ Dự phòng bằng Heparin
99 Fluid retention /ˈfluː.ɪd rɪˈten.ʃən/ Ứ dịch
100 Capillary permeability /kəˈpɪl.ər.i ˌpɜː.mi.əˈbɪl.ə.ti/ Tính thấm mao mạch
101 Median nerve /ˈmiː.di.ən nɜːv/ Dây thần kinh giữa
102 Wrist splints /rɪst splɪnts/ Nẹp cổ tay
103 Steroid injections /ˈstɪə.rɔɪd ɪnˈdʒek.ʃənz/ Tiêm steroid
104 Pelvic girdle dysfunction /ˈpel.vɪk ˈɡɜː.dəl dɪsˈfʌŋk.ʃən/ Rối loạn chức năng khung chậu
105 Symphyseal pelvic dysfunction (SPD) /sɪmˈfɪz.i.əl ˈpel.vɪk dɪsˈfʌŋk.ʃən/ Rối loạn chức năng khớp mu
106 Relaxin /rɪˈlæk.sɪn/ Relaxin (hoóc-môn)
107 Joint mobility /dʒɔɪnt məʊˈbɪl.ə.ti/ Sự linh hoạt của khớp
108 Haematological system /ˌhiː.mə.təˈlɒdʒ.ɪ.kəl ˈsɪs.təm/ Hệ huyết học
109 Plasma volume /ˈplæz.mə ˈvɒl.juːm/ Thể tích huyết tương
110 Red cell mass /red sel mæs/ Khối lượng hồng cầu
111 Physiological anaemia /ˌfɪz.i.əˈlɒdʒ.ɪ.kəl əˈniː.mi.ə/ Thiếu máu sinh lý
112 Iron-deficiency anaemia /ˈaɪən dɪˈfɪʃ.ən.si əˈniː.mi.ə/ Thiếu máu do thiếu sắt
113 Red cell indices /red sel ˈɪn.dɪ.siːz/ Các chỉ số hồng cầu
114 Haemoglobin (Hb) /ˌhiː.məˈɡləʊ.bɪn/ Huyết sắc tố
115 Mean cell volume (MCV) /miːn sel ˈvɒl.juːm/ Thể tích trung bình hồng cầu
116 Mean cell haemoglobin (MCH) /miːn sel ˌhiː.məˈɡləʊ.bɪn/ Lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu
117 Haematocrit /hɪˈmæt.ə.krɪt/ Dung tích hồng cầu
118 Menorrhagia /ˌmen.əˈreɪ.dʒə/ Rong kinh
119 Sickle cell disease /ˈsɪk.əl sel dɪˈziːz/ Bệnh hồng cầu hình liềm
120 Thalassaemia /ˌθæl.əˈsiː.mi.ə/ Bệnh tan máu bẩm sinh
121 Haemolytic anaemia /ˌhiː.məˈlɪt.ɪk əˈniː.mi.ə/ Thiếu máu tan máu
122 Multiple pregnancy /ˈmʌl.tɪ.pəl ˈpreɡ.nən.si/ Đa thai
123 Lethargy /ˈleθ.ə.dʒi/ Hôn mê, mệt mỏi
124 Oxygen-carrying capacity /ˈɒk.sɪ.dʒən ˈkær.i.ɪŋ kəˈpæs.ə.ti/ Khả năng vận chuyển oxy
125 Fetal iron stores /ˈfiː.təl ˈaɪən stɔːz/ Dự trữ sắt của thai nhi
126 Pre-term birth /ˌpriː.tɜːm bɜːθ/ Sinh non
127 Low birth weight /ləʊ bɜːθ weɪt/ Cân nặng khi sinh thấp
128 Blood transfusions /blʌd trænsˈfjuː.ʒənz/ Truyền máu
129 Peripartum /ˌper.iˈpɑː.təm/ Quanh cuộc sinh
130 Ferritin /ˈfer.ɪ.tɪn/ Ferritin
131 Zinc protoporphyrin /zɪŋk ˌprəʊ.təʊˈpɔː.fɪ.rɪn/ Kẽm protoporphyrin
132 Haemoglobin electrophoresis /ˌhiː.məˈɡləʊ.bɪn ɪˌlek.trəʊ.fəˈriː.sɪs/ Điện di huyết sắc tố
133 Parenteral iron /pəˈren.tər.əl ˈaɪən/ Sắt đường tiêm
134 B12 deficiency /biː twelv dɪˈfɪʃ.ən.si/ Thiếu vitamin B12
135 Prophylaxis /ˌprɒf.ɪˈlæk.sɪs/ Dự phòng
136 Diabetogenic state /ˌdaɪ.əˌbiː.təʊˈdʒen.ɪk steɪt/ Tình trạng sinh đái tháo đường
137 Insulin resistance /ˈɪn.sjə.lɪn rɪˈzɪs.təns/ Đề kháng insulin
138 Human placental lactogen /ˈhjuː.mən pləˈsen.təl ˈlæk.təʊ.dʒən/ Lactogen nhau thai người (hPL)
139 Glucagon /ˈɡluː.kə.ɡɒn/ Glucagon
140 Cortisol /ˈkɔː.tɪ.sɒl/ Cortisol
141 Oral glucose tolerance test (OGTT) /ˈɔː.rəl ˈɡluː.kəʊs ˈtɒl.ər.əns test/ Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống
142 Macrosomic infant /ˌmæk.rəʊˈsəʊ.mɪk ˈɪn.fənt/ Trẻ sơ sinh to
143 Body mass index (BMI) /ˈbɒd.i mæs ˈɪn.deks/ Chỉ số khối cơ thể
144 Glycosuria /ˌɡlaɪ.kəʊˈsjʊə.ri.ə/ Glucose niệu
145 Polycystic ovary syndrome (PCOS) /ˌpɒl.iˈsɪs.tɪk ˈəʊ.vər.i ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng buồng trứng đa nang
146 Polyhydramnios /ˌpɒl.i.haɪˈdræm.ni.ɒs/ Đa ối
147 Fasting blood glucose (FBG) /ˈfɑːs.tɪŋ blʌd ˈɡluː.kəʊs/ Đường huyết lúc đói
148 Stillbirth /ˈstɪl.bɜːθ/ Thai chết lưu
149 Induction of labour /ɪnˈdʌk.ʃən əv ˈleɪ.bər/ Khởi phát chuyển dạ
150 Shoulder dystocia /ˈʃəʊl.də dɪsˈtəʊ.ʃə/ Kẹt vai
151 Instrumental birth /ˌɪn.strəˈmen.təl bɜːθ/ Sinh có dụng cụ hỗ trợ
152 Caesarean section /sɪˈzeə.ri.ən ˈsek.ʃən/ Mổ lấy thai
153 Neonatal hypoglycaemia /ˌniː.əʊˈneɪ.təl ˌhaɪ.pəʊ.ɡlaɪˈsiː.mi.ə/ Hạ đường huyết sơ sinh
154 Respiratory distress syndrome /rɪˈspɪr.ə.tər.i dɪˈstres ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng suy hô hấp
155 Jaundice /ˈdʒɔːn.dɪs/ Vàng da
156 Fetal programming /ˈfiː.təl ˈprəʊ.ɡræm.ɪŋ/ Lập trình thai nhi
157 Low-glycaemic-index /ləʊ ɡlaɪˈsiː.mɪk ˈɪn.deks/ Chỉ số đường huyết thấp
158 Metformin /metˈfɔː.mɪn/ Metformin
159 Glibenclamide /ɡlɪˈben.klə.maɪd/ Glibenclamide
160 Pre-prandial /ˌpriːˈpræn.di.əl/ Trước bữa ăn
161 Post-prandial /ˌpəʊstˈpræn.di.əl/ Sau bữa ăn
162 Normoglycaemia /ˌnɔː.məʊ.ɡlaɪˈsiː.mi.ə/ Đường huyết bình thường
163 Growth scans /ɡrəʊθ skænz/ Siêu âm tăng trưởng
164 Antenatal corticosteroids /ˌæn.tiˈneɪ.təl ˌkɔː.tɪ.kəʊˈstɪə.rɔɪdz/ Corticosteroid trước sinh
165 Immunosuppressive /ɪˌmjuː.nəʊ.səˈpres.ɪv/ Ức chế miễn dịch
166 Chicken pox /ˈtʃɪk.ɪn pɒks/ Bệnh thủy đậu
167 Varicella zoster virus /ˌvær.ɪˈsel.ə ˈzɒs.tə ˈvaɪə.rəs/ Virus Varicella zoster
168 Varicella pneumonia /ˌvær.ɪˈsel.ə njuːˈməʊ.ni.ə/ Viêm phổi do thủy đậu
169 Congenital varicella syndrome /kənˈdʒen.ɪ.təl ˌvær.ɪˈsel.ə ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng thủy đậu bẩm sinh
170 Limb hypoplasia /lɪm ˌhaɪ.pəʊˈpleɪ.zi.ə/ Thiểu sản chi
171 Neonatal varicella /ˌniː.əʊˈneɪ.təl ˌvær.ɪˈsel.ə/ Thủy đậu sơ sinh
172 Zoster immunoglobulin /ˈzɒs.tər ˌɪm.jə.nəʊˈɡlɒb.jə.lɪn/ Globulin miễn dịch Zoster
173 Acyclovir /eɪˈsaɪ.kləʊ.vɪər/ Acyclovir
174 Parvovirus B19 /ˈpɑː.vəʊˌvaɪə.rəs biː naɪnˈtiːn/ Parvovirus B19
175 Erythema infectiosum /ˌer.ɪˈθiː.mə ɪnˌfek.tiˈəʊ.səm/ Ban đỏ nhiễm trùng
176 Slapped cheek syndrome /slæpt tʃiːk ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng má tát
177 Arthropathy /ɑːˈθrɒp.ə.θi/ Bệnh khớp
178 Fetal anaemia /ˈfiː.təl əˈniː.mi.ə/ Thiếu máu thai nhi
179 Fetal hydrops /ˈfiː.təl ˈhaɪ.drɒps/ Phù thai
180 Doppler ultrasound /ˈdɒp.lər ˈʌl.trə.saʊnd/ Siêu âm Doppler
181 Middle cerebral artery /ˈmɪd.əl səˈriː.brəl ˈɑː.tər.i/ Động mạch não giữa
182 In utero blood transfusions /ɪn ˈjuː.tər.əʊ blʌd trænsˈfjuː.ʒənz/ Truyền máu trong tử cung
183 Influenza H1N1 /ˌɪn.fluˈen.zə eɪtʃ wʌn en wʌn/ Cúm H1N1
184 Antiviral agents /ˌæn.tiˈvaɪə.rəl ˈeɪ.dʒənts/ Thuốc kháng virus
185 Oseltamivir /ˌɒs.elˈtæm.ɪ.vɪər/ Oseltamivir
186 Zanamivir /zəˈnæm.ɪ.vɪər/ Zanamivir
187 Human immunodeficiency virus (HIV) /ˈhjuː.mən ˌɪm.jə.nəʊ.dɪˈfɪʃ.ən.si ˈvaɪə.rəs/ Virus gây suy giảm miễn dịch ở người
188 Highly active antiretroviral therapy (HAART) /ˈhaɪ.li ˈæk.tɪv ˌæn.tiˌret.rəʊˈvaɪə.rəl ˈθer.ə.pi/ Liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao
189 Vertical transmission /ˈvɜː.tɪ.kəl trænzˈmɪʃ.ən/ Lây truyền dọc (mẹ sang con)
190 Transplacentally /ˌtræns.pləˈsen.təl.i/ Qua nhau thai
191 Seroconversion /ˌsɪə.rəʊ.kənˈvɜː.ʃən/ Chuyển đổi huyết thanh
192 Viral loads /ˈvaɪə.rəl ləʊdz/ Tải lượng virus
193 Fetal growth restriction /ˈfiː.təl ɡrəʊθ rɪˈstrɪk.ʃən/ Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
194 Teratogenic /ˌter.ə.təʊˈdʒen.ɪk/ Gây quái thai
195 Nucleoside reverse transcriptase inhibitors /ˈnjuː.kli.əʊ.saɪd rɪˈvɜːs trænˈskrɪp.teɪz ɪnˈhɪb.ɪ.təz/ Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside
196 CD4 count /siː diː fɔː kaʊnt/ Số lượng tế bào CD4
197 Zidovudine /zɪˈdɒv.ju.diːn/ Zidovudine
198 Protease inhibitors /ˈprəʊ.ti.eɪz ɪnˈhɪb.ɪ.təz/ Thuốc ức chế protease
199 Invasive procedures /ɪnˈveɪ.sɪv prəˈsiː.dʒəz/ Các thủ thuật xâm lấn
200 Amniocentesis /ˌæm.ni.əʊ.senˈtiː.sɪs/ Chọc ối
201 Fetal scalp electrodes /ˈfiː.təl skælp ɪˈlek.trəʊdz/ Điện cực da đầu thai nhi
202 Post-exposure prophylaxis /pəʊst ɪkˈspəʊ.ʒə ˌprɒf.ɪˈlæk.sɪs/ Dự phòng sau phơi nhiễm
203 Acute viral hepatitis /əˈkjuːt ˈvaɪə.rəl ˌhep.əˈtaɪ.tɪs/ Viêm gan siêu vi cấp
204 Pyrexia /paɪˈrek.si.ə/ Sốt
205 Faeco-oral route /ˈfiː.kəʊ ˈɔː.rəl ruːt/ Đường phân-miệng
206 Blood-borne route /blʌd bɔːn ruːt/ Đường máu
207 Serological tests /ˌsɪə.rəˈlɒdʒ.ɪ.kəl tests/ Xét nghiệm huyết thanh học
208 Cirrhosis /sɪˈrəʊ.sɪs/ Xơ gan
209 Spontaneous pre-term labour /spɒnˈteɪ.ni.əs ˌpriː.tɜːm ˈleɪ.bər/ Chuyển dạ sinh non tự nhiên
210 Immunization /ˌɪm.jə.naɪˈzeɪ.ʃən/ Tiêm chủng
211 Tuberculosis (TB) /tʃuːˌbɜː.kjəˈləʊ.sɪs/ Bệnh lao
212 Synergistic /ˌsɪn.əˈdʒɪs.tɪk/ Hiệp đồng, cộng hưởng
213 Mycobacterium tuberculosis /ˌmaɪ.kəʊ.bækˈtɪə.ri.əm tʃuːˌbɜː.kjəˈləʊ.sɪs/ Vi khuẩn lao
214 Hypoxia /haɪˈpɒk.si.ə/ Giảm oxy máu
215 Tuberculin testing /tʃuːˈbɜː.kjə.lɪn ˈtes.tɪŋ/ Xét nghiệm Tuberculin
216 Streptomycin /ˌstrep.təʊˈmaɪ.sɪn/ Streptomycin
217 Ototoxicity /ˌəʊ.təʊ.tɒkˈsɪs.ə.ti/ Độc tính trên tai
218 Malaria /məˈleə.ri.ə/ Sốt rét
219 Endemic /enˈdem.ɪk/ Đặc hữu, lưu hành địa phương
220 Parasitaemia /ˌpær.ə.sɪˈtiː.mi.ə/ Nhiễm ký sinh trùng trong máu
221 Plasmodium falciparum /plæzˈməʊ.di.əm fælˈsɪp.ə.rəm/ Ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum
222 Erythrocyte /ɪˈrɪθ.rə.saɪt/ Hồng cầu
223 Placental malaria /pləˈsen.təl məˈleə.ri.ə/ Sốt rét nhau thai
224 Immunoglobulin G (IgG) /ˌɪm.jə.nəʊˈɡlɒb.jə.lɪn dʒiː/ Globulin miễn dịch G
225 Insecticides /ɪnˈsek.tɪ.saɪdz/ Thuốc trừ sâu
226 Chloroquine /ˈklɒr.ə.kwɪn/ Chloroquine
227 Pyrimethamine /ˌpɪr.ɪˈmeθ.ə.miːn/ Pyrimethamine
228 Sulfadoxine /ˌsʌl.fəˈdɒk.siːn/ Sulfadoxine
229 Proguanil /prəʊˈɡwɑː.nɪl/ Proguanil
230 Mefloquine /ˈmef.ləʊ.kwiːn/ Mefloquine
231 Cochleovestibular damage /ˈkɒk.li.əʊ.vesˈtɪb.jə.lər ˈdæm.ɪdʒ/ Tổn thương ốc tai-tiền đình
232 Rubella /ruːˈbel.ə/ Bệnh sởi Đức, Rubella
233 Exanthematous disease /ˌek.sænˈθem.ə.təs dɪˈziːz/ Bệnh phát ban
234 Arthralgias /ɑːˈθræl.dʒəz/ Đau khớp
235 Lymphadenopathy /lɪmˌfæd.əˈnɒp.ə.θi/ Bệnh hạch bạch huyết
236 Encephalitis /ɪnˌsef.əˈlaɪ.tɪs/ Viêm não
237 Bleeding diathesis /ˈbliː.dɪŋ daɪˈæθ.ə.sɪs/ Tạng xuất huyết
238 Congenital rubella syndrome (CRS) /kənˈdʒen.ɪ.təl ruːˈbel.ə ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng Rubella bẩm sinh
239 Purpura /ˈpɜː.pjə.rə/ Ban xuất huyết
240 Splenomegaly /ˌspliː.nəʊˈmeɡ.əl.i/ Lách to
241 Meningoencephalitis /məˌnɪŋ.ɡəʊ.enˌsef.əˈlaɪ.tɪs/ Viêm màng não-não
242 Thrombocytopenia /ˌθrɒm.bəʊˌsaɪ.təˈpiː.ni.ə/ Giảm tiểu cầu
243 Cataracts /ˈkæt.ə.rækts/ Đục thủy tinh thể
244 Glaucoma /ɡlaʊˈkəʊ.mə/ Bệnh tăng nhãn áp
245 Microcephaly /ˌmaɪ.krəʊˈsef.əl.i/ Tật đầu nhỏ
246 Measles, mumps and rubella (MMR) /ˈmiː.zəlz mʌmps ənd ruːˈbel.ə/ Vắc-xin Sởi, Quai bị, Rubella
247 Immunoglobulin M (IgM) /ˌɪm.jə.nəʊˈɡlɒb.jə.lɪn em/ Globulin miễn dịch M
248 Zika virus /ˈziː.kə ˈvaɪə.rəs/ Virus Zika
249 Flavivirus /ˈfleɪ.vɪˌvaɪə.rəs/ Flavivirus
250 Aedes aegypti /aɪˈiː.diːz iːˈdʒɪp.taɪ/ Muỗi Aedes aegypti
251 Dengue /ˈdeŋ.ɡi/ Sốt xuất huyết Dengue
252 Chikungunya /ˌtʃɪk.ənˈɡʊn.jə/ Sốt Chikungunya
253 Pruritus /prʊəˈraɪ.təs/ Ngứa
254 Myalgia /maɪˈæl.dʒə/ Đau cơ
255 Conjunctivitis /kənˌdʒʌŋk.tɪˈvaɪ.tɪs/ Viêm kết mạc
256 Guillain-Barré syndrome /ˌɡiː.jæ̃ ˈbɑː.reɪ ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng Guillain-Barré
257 Polymerase chain reaction (PCR) /pəˈlɪm.ə.reɪz tʃeɪn riˈæk.ʃən/ Phản ứng chuỗi polymerase
258 Congenital Zika virus syndrome (CZVS) /kənˈdʒen.ɪ.təl ˈziː.kə ˈvaɪə.rəs ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng virus Zika bẩm sinh
259 Cerebral calcification /səˈriː.brəl ˌkæl.sɪ.fɪˈkeɪ.ʃən/ Vôi hóa não
260 Ventriculomegaly /venˌtrɪk.jə.ləʊˈmeɡ.əl.i/ Não úng thủy, giãn não thất
261 Microphthalmia /ˌmaɪ.krɒfˈθæl.mi.ə/ Tật mắt nhỏ
262 Oligohydramnios /ˌɒl.ɪ.ɡəʊ.haɪˈdræm.ni.ɒs/ Thiểu ối
263 Talipes /ˈtæl.ɪ.piːz/ Chân khoèo
264 Asymptomatic bacteriuria /ˌeɪ.sɪmp.təˈmæt.ɪk bækˌtɪə.riˈjʊə.ri.ə/ Nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng
265 Bacteraemia /ˌbæk.təˈriː.mi.ə/ Nhiễm khuẩn huyết
266 Septic shock /ˈsep.tɪk ʃɒk/ Sốc nhiễm khuẩn
267 Prothrombotic state /ˌprəʊ.θrɒmˈbɒt.ɪk steɪt/ Tình trạng tiền huyết khối
268 Coagulation factors /kəʊˌæɡ.jəˈleɪ.ʃən ˈfæk.təz/ Các yếu tố đông máu
269 Endogenous anticoagulants /enˈdɒdʒ.ə.nəs ˌæn.ti.kəʊˈæɡ.jə.lənts/ Thuốc chống đông nội sinh
270 Fibrinolysis /ˌfaɪ.brɪˈnɒl.ə.sɪs/ Tiêu sợi huyết
271 Venous stasis /ˈviː.nəs ˈsteɪ.sɪs/ Ứ trệ tĩnh mạch
272 Ovarian hyperstimulation /əʊˈveə.ri.ən ˌhaɪ.pəˌstɪm.jəˈleɪ.ʃən/ Quá kích buồng trứng
273 Pleuritic chest pain /plʊəˈrɪt.ɪk tʃest peɪn/ Đau ngực kiểu màng phổi
274 Iliofemoral veins /ˌɪl.i.əʊˈfem.ər.əl veɪnz/ Tĩnh mạch chậu-đùi
275 D-Dimer /diː ˈdaɪ.mər/ D-Dimer
276 Magnetic resonance imaging (MRI) /mæɡˈnet.ɪk ˈrez.ən.əns ˈɪm.ɪ.dʒɪŋ/ Chụp cộng hưởng từ
277 Spiral artery computed tomography (CT) /ˈspaɪə.rəl ˈɑː.tər.i kəmˈpjuː.təd təˈmɒɡ.rə.fi/ Chụp cắt lớp vi tính động mạch xoắn
278 Venous perfusion scanning /ˈviː.nəs pəˈfjuː.ʒən ˈskæn.ɪŋ/ Xạ hình tưới máu tĩnh mạch
279 Low-molecular-weight heparin (LMWH) /ləʊ məˈlek.jə.lə weɪt ˈhep.ə.rɪn/ Heparin trọng lượng phân tử thấp
280 Warfarin /ˈwɔː.fər.ɪn/ Warfarin
281 Embryopathy /ˌem.briˈɒp.ə.θi/ Bệnh phôi thai
282 Intracranial bleeding /ˌɪn.trəˈkreɪ.ni.əl ˈbliː.dɪŋ/ Chảy máu nội sọ
283 Epidural haematoma /ˌep.ɪˈdʒʊə.rəl ˌhiː.məˈtəʊ.mə/ Tụ máu ngoài màng cứng
284 Oestrogen-containing contraceptives /ˈiː.strə.dʒən kənˈteɪ.nɪŋ ˌkɒn.trəˈsep.tɪvz/ Thuốc tránh thai chứa estrogen
285 Obstetric cholestasis /ɒbˈstet.rɪk ˌkɒl.ɪˈsteɪ.sɪs/ Ứ mật trong sản khoa
286 Bile acids /baɪl ˈæs.ɪdz/ Axit mật
287 Liver transaminases /ˈlɪv.ə trænsˈæm.ɪ.neɪzɪz/ Men gan (transaminase)
288 Autoimmune disease /ˌɔː.təʊ.ɪˈmjuːn dɪˈziːz/ Bệnh tự miễn
289 Pruritus /prʊəˈraɪ.təs/ Ngứa
290 Meconium /məˈkəʊ.ni.əm/ Phân su
291 Topical emollients /ˈtɒp.ɪ.kəl ɪˈmɒl.i.ənts/ Thuốc làm mềm da dùng tại chỗ
292 Antihistamines /ˌæn.tiˈhɪs.tə.miːnz/ Thuốc kháng histamin
293 Ursodeoxycholic acid /ˌɜː.səʊˌdiː.ɒk.sɪˈkəʊ.lɪk ˈæs.ɪd/ Axit Ursodeoxycholic
294 Vitamin K /ˈvɪt.ə.mɪn keɪ/ Vitamin K
295 HELLP syndrome /help ˈsɪn.drəʊm/ Hội chứng HELLP
296 Haemolysis /hiːˈmɒl.ə.sɪs/ Tan máu
297 Fatty oxidation disorder /ˈfæt.i ˌɒk.sɪˈdeɪ.ʃən dɪˈsɔː.dər/ Rối loạn oxy hóa axit béo
298 Hepatic encephalopathy /hɪˈpæt.ɪk enˌsef.əˈlɒp.ə.θi/ Bệnh não gan
299 Disseminated intravascular coagulation (DIC) /dɪˈsem.ɪ.neɪ.tɪd ˌɪn.trəˈvæs.kjə.lə kəʊˌæɡ.jəˈleɪ.ʃən/ Đông máu nội mạch lan tỏa
300 Dialysis /daɪˈæl.ə.sɪs/ Lọc máu, thẩm tách