Trang chủCHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH NHẬP MÔN

Chẩn đoán Hình ảnh Nhập môn, Ấn bản thứ 5. CHƯƠNG 19: Siêu âm Mạch máu, Nhi khoa và Siêu âm tại giường

Chẩn đoán Hình ảnh Nhập môn, Ấn bản thứ 5. CHƯƠNG 17: NHẬN BIẾT CÁC BẤT THƯỜNG ĐƯỜNG TIÊU HÓA, GAN-MẬT, VÀ ĐƯỜNG TIẾT NIỆU
[Sách Dịch] Cẩm nang Hô hấp Can thiệp. CHƯƠNG 3. Siêu âm nội soi phế quản đầu dò Radial
Chẩn đoán Hình ảnh Nhập môn, Ấn bản thứ 5. Phụ lục Điện tử D: Thuật ngữ chính và Bảng chú giải

Chẩn đoán Hình ảnh Nhập môn: Các Nguyên lý và Dấu hiệu Nhận biết, Ấn bản thứ 5
Tác giả: William Herring, MD, FACR – © 2024 Nhà xuất bản Elsevier
Ths.Bs. Lê Đình Sáng (Chủ biên Bản dịch tiếng Việt)


CHƯƠNG 19: Siêu âm Mạch máu, Nhi khoa và Siêu âm tại giường
Vascular, Pediatric, and Point-of-Care Ultrasound
Peter S. Wang, MD
Learning Radiology, 19, 223-235


Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận về một số ứng dụng khác của siêu âm (Ultrasound – US), bao gồm siêu âm mạch máu, các ứng dụng siêu âm trong nhi khoa và siêu âm tại giường.

Câu hỏi Tình huống 19

Đây là hình ảnh siêu âm lát cắt dọc vùng ngực/hạ sườn phải ở một bệnh nhân 75 tuổi bị khó thở ngày càng tăng do suy tim sung huyết. Biến chứng nào của bệnh lý đó được mô tả trên hình ảnh? Câu trả lời có ở cuối chương này.

Ant, Phía trước; F, Phía chân; H, Phía đầu; L, Gan; Post, Phía sau.

 

Siêu âm Mạch máu

Siêu âm mạch máu sử dụng cả siêu âm B-mode (thang xám) và siêu âm Doppler – một sự kết hợp được gọi là siêu âm Duplex – để hiển thị hình thái của các mạch máu đồng thời ghi lại hướng dòng chảy và vận tốc của máu đang di chuyển trong các mạch máu đó.

Siêu âm Duplex đảm bảo rằng các phép đo hướng và dòng chảy được thực hiện tại đúng vị trí giải phẫu cần quan tâm.

Hai loại siêu âm Doppler phổ biến nhất là Doppler màu và Doppler phổ.

  • Doppler màu có thể cung cấp thông tin cụ thể nhưng có giới hạn trên một vùng tương đối lớn, trong khi Doppler phổ cung cấp thông tin chính xác hơn về một vùng nhỏ hơn. Hai chế độ này bổ sung cho nhau.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Siêu âm Doppler màu chồng màu lên hình ảnh thang xám để chỉ ra sự hiện diện và hướng của dòng máu đang di chuyển. Theo quy ước, màu đỏ chỉ thị sự di chuyển về phía đầu dòmàu xanh chỉ thị sự di chuyển ra xa đầu dò (Hình 19.1).

Hình 19.1 Hình ảnh Doppler màu. Theo quy ước, Doppler màu mô tả dòng chảy về phía đầu dò là màu đỏ và dòng chảy ra xa đầu dò là màu xanh. Đây là hình ảnh của tĩnh mạch lách (mũi tên cong). Khi được ghi hình từ phía trước tại đường giữa, tĩnh mạch lách ở bên trái đường giữa có dòng máu chảy ra trước về phía đầu dò (mũi tên đỏ) và ở bên phải đường giữa có dòng máu chảy ra sau ra xa đầu dò (mũi tên xanh). Do đó, Doppler màu mô tả dòng chảy vừa có màu đỏ vừa có màu xanh trong cùng một mạch máu. Trong suốt chương này, nhiều hình ảnh sẽ có một hoặc nhiều chữ viết tắt sau để hỗ trợ định hướng: Ant, Phía trước; F, Phía chân của bệnh nhân; H, Phía đầu của bệnh nhân; Lt hoặc L, Trái; Post, Phía sau; Rt hoặc R, Phải.

  • Siêu âm Doppler phổ được hiển thị dưới dạng sóng, là một biểu đồ biểu diễn vận tốc dòng chảy được đo theo thời gian trong một khu vực tập trung. Nó được mô tả dọc theo trục X (thời gian) và Y (vận tốc). Theo quy ước, dòng chảy về phía đầu dò được hiển thị phía trên đường cơ sở (baseline) và dòng chảy ra xa được hiển thị phía dưới đường cơ sở (Hình 19.2).

Hình 19.2 Hình ảnh Doppler màu và phổ bình thường. (A) Hình ảnh này của tĩnh mạch cửa chính cho thấy hướng dòng chảy bình thường được mô tả bằng màu đỏ (hướng về phía đầu dò) và ngoại vi của gan. (B) Ở một bệnh nhân khác bị xơ gan và tăng áp lực tĩnh mạch cửa, hướng dòng chảy trong tĩnh mạch cửa chính bị đảo ngược và chảy về phía rốn gan. Do đó, hướng dòng chảy được mô tả bằng màu xanh (ra xa đầu dò). Dạng sóng Doppler phổ nằm bên dưới phần màu của hình ảnh siêu âm và được vẽ trên thang đo thời gian-vận tốc với trục x mô tả thời gian và trục y mô tả vận tốc. Dạng sóng tĩnh mạch cửa trong (A) nằm trên đường cơ sở (đường cơ sở là đường ngang mỏng) cho thấy dòng máu chảy về phía đầu dò. Dạng sóng trong tĩnh mạch cửa chính trong (B) nằm dưới đường cơ sở cho thấy dòng máu chảy ra xa đầu dò.

  • Có những dạng sóng Doppler phổ động mạch đặc trưng, tùy thuộc vào sức cản đối với dòng máu trong giường mạch mà động mạch đó cung cấp (Hình 19.319.4). Dạng sóng tĩnh mạch cũng có thể thay đổi tùy thuộc vào khoảng cách của chúng đến tim, chức năng tim và thì hô hấp.

Hình 19.3 Hình ảnh Doppler màu và phổ bình thường của động mạch gan: Sức cản thấp. Các cơ quan tận cùng như gan có một giường mạch với sức cản thấp đối với dòng máu từ các động mạch cung cấp của chúng vì chúng cần nguồn cung cấp máu liên tục. Do đó, dòng chảy trong động mạch gan thường hướng về gan trong suốt chu kỳ tim trong cả thì tâm thu (mũi tên cong) và thì tâm trương (mũi tên thẳng).

Hình 19.4 Hình ảnh Doppler màu và phổ bình thường của động mạch đùi chung: Sức cản cao. Các chi khi nghỉ ngơi thường có một giường mạch co lại và do đó có sức cản cao đối với dòng chảy từ các động mạch cung cấp của chúng. Do đó, dòng chảy trong động mạch đùi chung (cung cấp cho chi dưới) thường có dạng sóng sức cản cao. Dòng chảy hướng về phía chân (trên đường cơ sở) trong áp suất cao của thì tâm thu (mũi tên cong) và có thể dừng lại hoặc đảo ngược (dưới đường cơ sở) trong áp suất thấp của thì tâm trương (mũi tên thẳng).

Nếu một tín hiệu siêu âm được phản xạ từ một vật thể đứng yên, tín hiệu trở về về mặt lý thuyết sẽ giữ nguyên tần số mà nó đã được truyền đi. Nhưng dựa trên các nguyên lý của siêu âm Doppler, tần số của một tín hiệu được phản xạ từ các vật thể chuyển động, chẳng hạn như các tế bào máu, sẽ thay đổi tỷ lệ với vận tốc của mục tiêu.

Với thông tin này, chúng ta có thể khảo sát các mạch máu để xác định xem chúng có bị hẹp hay tắc nghẽn hay không vì hẹp động mạch dẫn đến sự gia tăng vận tốc máu qua khu vực bị hẹp. Nếu chúng ta dần dần di chuyển đầu dò Doppler dọc theo đường đi của một mạch máu, chúng ta có thể xác định được một tổn thương hẹp và vị trí của nó.

Điều này tương tự như vận tốc của nước chảy qua đầu mở của một vòi nước sân vườn. Khi miệng vòi bị thu hẹp, vận tốc của dòng nước chảy phải tăng lên để cùng một thể tích nước chảy qua lòng ống nhỏ hơn (Hình 19.5).

Hình 19.5 Hình ảnh Doppler màu và phổ của một động mạch đùi nông bị hẹp. (A) Khi bạn đặt ngón tay cái để thu hẹp miệng vòi nước, nước chảy nhanh hơn đáng kể vì cùng một thể tích nước phải đi qua một lỗ mở nhỏ hơn. (B) Tương tự, khi một động mạch bị hẹp đáng kể do bệnh xơ vữa động mạch, vận tốc dòng máu qua chỗ hẹp phải tăng lên (mũi tên đứt nét) để cùng một thể tích máu đi qua lòng ống nhỏ hơn (trong trường hợp này, vận tốc trên 500 cm/giây). Ngoài ra, dạng sóng động mạch có thể thay đổi thành dạng một pha (có dòng chảy vẫn ở một bên của đường cơ sở Doppler phổ) vì có sức cản tương đối ít hơn sau chỗ hẹp khi động mạch mở ra một lòng ống có đường kính bình thường (xem Hình 19.3).

Do những thay đổi trong dòng máu, những bất thường trong dạng sóng phổ cũng có thể gợi ý sự hẹp hoặc tắc nghẽn xảy ra ở một phần của mạch máu gần hơn hoặc xa hơn so với khu vực đang được nghiên cứu.

Hẹp động mạch

Động mạch cảnh

  • Siêu âm động mạch cảnh đã trở thành phương pháp được lựa chọn hàng đầu để đánh giá không xâm lấn bệnh xơ vữa động mạch ngoài sọ. Siêu âm động mạch cảnh cũng được sử dụng để đánh giá tiếng thổi, sàng lọc trước phẫu thuật trước các phẫu thuật mạch máu lớn khác, và để đánh giá sự thông thoáng của mạch máu sau phẫu thuật cắt bỏ nội mạc.
  • Khi có hẹp hơn 50% lòng động mạch cảnh, vận tốc dòng chảy sẽ tăng cao. Hẹp đáng kể làm thay đổi dạng sóng Doppler tại các điểm gần, tại, và xa chỗ hẹp.
  • Siêu âm cũng được sử dụng để đánh giá độ dày của thành mạch (nó dày lên khi bị xơ vữa động mạch) và sự hiện diện cũng như bản chất của mảng xơ vữa.

Động mạch ngoại biên

  • Bệnh động mạch ngoại biên xảy ra khi các mảng xơ vữa lắng đọng trong các động mạch nuôi các chi. Hẹp hoặc tắc nghẽn đáng kể các động mạch ngoại biên thường xảy ra ở các chi dưới và có thể dẫn đến chứng đau cách hồi (tức là đau chân khi gắng sức) hoặc đau khi nghỉ.
  • Các yếu tố nguy cơ bao gồm hút thuốc, tiểu đường, tăng huyết áp, tăng lipid máu, giới tính nam và dân tộc da đen.
  • Các động mạch ngoại biên ở các chi thường có cái gọi là dạng sóng sức cản cao vì khi nghỉ ngơi, giường mạch trong các cơ mà chúng cung cấp bị co lại (xem Hình 19.4).
  • Hẹp đáng kể một động mạch ngoại biên sẽ gây ra sự gia tăng vận tốc của dòng máu chảy.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Sàng lọc bệnh động mạch ngoại biên thường bao gồm việc đo chỉ số cổ chân-cánh tay (ABI), là tỷ số của huyết áp tâm thu ở cổ chân chia cho huyết áp tâm thu ở cánh tay (tức là động mạch cánh tay).ABI = Huyết áp tâm thu ở cổ chân / Huyết áp tâm thu ở cánh tay
  • Huyết áp được đo bằng cách phát hiện dòng chảy động mạch bằng đầu dò Doppler trên động mạch thay vì bằng ống nghe. Huyết áp thường được đo ở cả hai cánh tay và các động mạch chày sau và mu chân ở mỗi chân bằng cách bơm phồng băng đo huyết áp qua điểm mà dòng chảy và âm thanh Doppler ngừng lại, sau đó từ từ xả hơi băng đo cho đến khi dòng chảy và âm thanh Doppler trở lại.
  • Bình thường, huyết áp tâm thu ở cổ chân phải bằng với huyết áp ở cánh tay, dẫn đến chỉ số ABI là 1. Khi huyết áp ở cổ chân giảm do bệnh mạch máu ngoại biên ở chân và vì huyết áp cổ chân là tử số của ABI, sẽ có sự giảm giá trị của ABI, và một chỉ số ABI từ 0.5 trở xuống thường cho thấy bệnh động mạch nặng.

Giả phình mạch

Một trong những biến chứng sau một thủ thuật mạch máu xâm lấn, chẳng hạn như thông tim, là sự phát triển của một túi giả phình, thường xuyên nhất là tại vị trí đi vào của catheter. Vị trí này thường ở bẹn tại động mạch đùi chung hoặc ở cánh tay tại động mạch cánh tay.

Một túi giả phình hình thành khi có sự vỡ hoặc tổn thương thành động mạch, nhưng máu rò rỉ qua khiếm khuyết vẫn bị giới hạn bởi một lớp ngoài mỏng, nguyên vẹn của chính thành động mạch hoặc bởi các mô xung quanh mạch máu. Bởi vì thành hoặc mô quanh mạch chứa túi giả phình rất mỏng, nó có nguy cơ cao bị vỡ thêm và thoát mạch. Ngược lại, thành động mạch của một túi phình thật vẫn nguyên vẹn nhưng đường kính của động mạch bị giãn ra bất thường.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Trên siêu âm, một túi giả phình xuất hiện dưới dạng một túi lồi ra giảm âm phát sinh từ một động mạch. Đôi khi, túi giả phình có thể được nối với động mạch bằng một cổ hoặc cuống mỏng. Máu chảy vào và ra khỏi một túi giả phình tạo ra một hình ảnh đặc trưng trên hình ảnh Doppler màu và phổ (Hình 19.6).

Hình 19.6 Hình ảnh Doppler màu và phổ của một túi giả phình. (A) Hình ảnh Doppler màu này cho thấy một túi giả phình (mũi tên cong) phát sinh từ động mạch đùi chung (mũi tên thẳng) qua một cổ mỏng. Do dòng chảy vào và ra khỏi túi giả phình, một mô hình đặc trưng của dòng chảy Doppler màu đỏ và xanh tương tự như biểu tượng âm-dương được hiển thị. (B) Khảo sát Doppler phổ của cổ túi giả phình (mũi tên liền) cho thấy dòng chảy vào và ra khỏi túi giả phình dưới dạng dòng chảy trên (mũi tên đứt nét) và dưới đường cơ sở. Túi giả phình phát triển từ động mạch đùi chung sau khi thông tim.

  • Siêu âm cũng được sử dụng để điều trị các túi giả phình bằng cách áp dụng lực đè ép trực tiếp bằng đầu dò siêu âm để làm tắc túi phình, đặc biệt nếu túi nhỏ. Siêu âm cũng có thể được sử dụng để hướng dẫn tiêm thrombin dẫn đến huyết khối hoặc tắc nghẽn túi giả phình.

Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT)

Siêu âm là phương pháp được lựa chọn hàng đầu khi nghi ngờ huyết khối tĩnh mạch sâu ở các chi trên hoặc dưới. Các triệu chứng tại chỗ có thể bao gồm đau, ấn đau, và nóng ở khu vực bị ảnh hưởng, mặc dù hầu hết bệnh nhân bị DVT không có triệu chứng. Biến chứng nghiêm trọng nhất của DVT là thuyên tắc phổi.

Khảo sát siêu âm cho DVT ở chân có hiệu suất cao nhất ở bệnh nhân có triệu chứng biểu hiện các triệu chứng tại chỗ trên đầu gối. Siêu âm có độ nhạy thấp hơn nhiều ở những bệnh nhân không có triệu chứng.

Đánh giá siêu âm huyết khối tĩnh mạch sâu thường được thực hiện ở chân nhưng cũng có thể đánh giá ở tay. Ở chân, nó bao gồm việc sử dụng đầu dò để đè ép có hệ thống các tĩnh mạch sâu trong khi quét dọc theo các mốc giải phẫu nhất định, bao gồm tĩnh mạch đùi chung, tĩnh mạch đùi sâu đoạn gần, tĩnh mạch hiển lớn, tĩnh mạch đùi, tĩnh mạch khoeo, và các tĩnh mạch chày sau và mác. Tương tự, đánh giá DVT ở tay bao gồm các tĩnh mạch cảnh trong, dưới đòn, nách, và cánh tay.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Các cấu trúc tĩnh mạch bình thường có thành đàn hồi và sẽ dễ dàng bị đè ép và xẹp hoàn toàn khi áp lực được tác động bởi đầu dò. Các tĩnh mạch chứa huyết khối sẽ không xẹp hoàn toàn. Bản thân huyết khối tăng âm có thể được nhìn thấy trên hình ảnh thang xám. Siêu âm Duplex cũng có thể được sử dụng để xác định sự hiện diện hoặc vắng mặt của dòng chảy trong tĩnh mạch (Hình 19.7).

Hình 19.7 Tĩnh mạch nách bình thường và bị huyết khối. (A và B) Bình thường. Khi người làm siêu âm tác động lực đè ép bằng đầu dò, tĩnh mạch nách bình thường (Vn) sẽ xẹp hoàn toàn giữa trạng thái trước khi đè (mũi tên liền) và sau khi đè (mũi tên đứt nét) do thành đàn hồi của nó. (C và D) Bất thường. Ở một bệnh nhân có hướng động mạch và tĩnh mạch hơi khác, huyết khối tĩnh mạch sâu cấp tính trong tĩnh mạch nách (Vn) ngăn cản sự xẹp bình thường của nó giữa trạng thái trước khi đè (mũi tên liền) và sau khi đè (mũi tên đứt nét).

Nhi khoa

Việc siêu âm không sử dụng bức xạ ion hóa đặc biệt hữu ích ở bệnh nhân nhi vì những bệnh nhân nhỏ tuổi và đang phát triển dễ bị ảnh hưởng bởi tác động của bức xạ hơn và có tuổi thọ tương đối dài hơn để phát triển các biến chứng tiềm tàng. Ngoài ra, thể trạng nhỏ hơn của một đứa trẻ cho phép tín hiệu siêu âm xuyên thấu tốt hơn và cho phép sử dụng các đầu dò tần số cao hơn để cung cấp hình ảnh có độ phân giải cao hơn.

Nhiều ứng dụng của siêu âm là đặc thù cho nhóm tuổi nhi khoa, một số trong đó được thảo luận trong các phần sau.

Xuất huyết mầm (Germinal Matrix Hemorrhage)

Một cửa sổ siêu âm mô tả một đường đi giải phẫu cho tín hiệu siêu âm di chuyển mà tương đối không có xương hoặc khí, cả hai đều sẽ làm suy giảm hình ảnh siêu âm. Các cấu trúc nội sọ của trẻ sơ sinh đặc biệt dễ tiếp cận bằng siêu âm vì các cửa sổ siêu âm được cung cấp bởi các thóp mở.

Nhiều cấu trúc trong các khoang trên lều và dưới lều, bao gồm nhu mô não và các khoang ngoài trục, có thể được đánh giá. Ở trẻ sơ sinh, một trong những ứng dụng như vậy là để đánh giá xuất huyết nội sọ.

Xuất huyết nội sọ ở trẻ sơ sinh có thể gây ra bệnh tật và tử vong đáng kể, đặc biệt là ở trẻ sinh non. Các xuất huyết này thường xảy ra nhất trong mầm não (germinal matrix), chỉ tồn tại tạm thời trước 34 tuần tuổi thai. Mầm não là nguồn gốc trong não thai nhi đang phát triển tạo ra các tế bào thần kinh mà sau này sẽ di chuyển ra ngoài để cấu thành chất xám của não. Nó xảy ra ở rãnh đuôi-đồi thị giàu mạch máu, nằm trong vùng dưới màng não thất giữa nhân đuôi và đồi thị (Hình 19.8A).

Hình 19.8 Xuất huyết mầm. Hình ảnh siêu âm lát cắt dọc của não cho thấy cả rãnh đuôi-đồi thị phải (A) và trái (B). (A) Rãnh đuôi-đồi thị phải bình thường được mô tả là một đường tăng âm, mỏng (mũi tên) giữa đồi thị (T) và nhân đuôi (C). (B) Ở bên trái của não, vật liệu tăng âm, hình cầu (mũi tên) nằm trong rãnh đuôi-đồi thị đại diện cho một xuất huyết mầm.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Xuất huyết mầm xuất hiện dưới dạng một vùng vật liệu tăng âm trong rãnh đuôi-đồi thị có thể lan rộng vào não thất và nhu mô não (Hình 19.8B).
  • Xuất huyết mầm được chia thành bốn cấp độ, thường bằng hình ảnh siêu âm, với tỷ lệ tử vong dự đoán tăng lên khi cấp độ tăng. Tổn thương mầm não có hậu quả tử vong và bệnh tật đáng kể.

Loạn sản phát triển khớp háng (DDH)

Loạn sản phát triển khớp háng là một rối loạn tương đối phổ biến ở trẻ sơ sinh có thể dẫn đến trật hoặc bán trật khớp háng. Nó phổ biến hơn ở nữ, trẻ sinh con đầu lòng, ngôi mông, và trẻ có cha mẹ bị DDH. Khớp háng trái cũng bị ảnh hưởng phổ biến hơn.

Các dấu hiệu khám thực thể gợi ý DDH bao gồm nghiệm pháp Ortolani và Barlow dương tính.

  • Trong nghiệm pháp Ortolani, khớp háng được xoay ngoài và dạng ra. Một nghiệm pháp dương tính xảy ra khi cảm thấy hoặc nghe thấy một tiếng “click” hoặc “clunk” trong quá trình này do sự nắn lại của khớp háng bị trật hoặc bán trật.
  • Trong nghiệm pháp Barlow, khớp háng được gập, xoay trong, và khép lại với áp lực ra sau lên chỏm xương đùi. Một nghiệm pháp dương tính xảy ra khi cảm thấy một tiếng “click” hoặc “clunk” từ khớp háng bị trật.

Ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao bị DDH hoặc có dấu hiệu khám thực thể bất thường, hình thái của ổ cối có thể được đánh giá bằng siêu âm ở 4 đến 6 tuần tuổi trong khi đầu xương đùi vẫn còn là sụn. Một hình thái bất thường của ổ cối hoặc trật hoàn toàn chỏm xương đùi cho thấy DDH (Hình 19.9). Nghiệm pháp Barlow cũng có thể được thực hiện dưới siêu âm thời gian thực để mô tả bất kỳ sự bán trật hoặc trật khớp háng nào.

Một khi đầu xương cốt hóa, xảy ra vào khoảng 3 đến 4 tháng tuổi, cần phải chụp X-quang để đánh giá vì siêu âm không thể xuyên qua xương đã cốt hóa để đánh giá ổ cối.

Hình 19.9 Đánh giá Loạn sản phát triển khớp háng (DDH). (A) Đây là một hình ảnh tổng hợp của một phim X-quang trên một trẻ lớn hơn để cho thấy vị trí của đầu dò (T) so với trẻ khi trẻ nằm nghiêng trong quá trình quét. Chỏm xương đùi (FH) thường nằm trong ổ cối, được cấu tạo một phần bởi mái ổ cối (mũi tên, đường màu đỏ). Mái ổ cối tiếp giáp với bờ ngoài của xương chậu (đường màu xanh lá cây). Góc được hình thành bởi giao điểm của hai đường được gọi là góc alpha. Góc alpha thường lớn hơn 55 độ ở trẻ sơ sinh và lớn hơn 60 độ ở 4 đến 6 tuần tuổi. (B) Một hình ảnh siêu âm có hướng tương tự của khớp háng của một trẻ nhỏ hơn bị DDH cho thấy FH sụn, mái ổ cối (đường màu đỏ), và xương chậu (đường màu xanh lá cây). Trong DDH, độ dốc của mái ổ cối (đường màu đỏ) nông và dốc bất thường, làm cho góc alpha giảm và tăng nguy cơ FH bị bán trật hoặc trật.

Viêm ruột hoại tử (NEC)

  • Viêm ruột hoại tử thường ảnh hưởng đến trẻ sinh non trong những tuần đầu đời. Nó có thể là một tình trạng tiêu hóa đe dọa tính mạng ở trẻ sơ sinh. Sinh lý bệnh đã được giả thuyết là liên quan đến sự phá vỡ niêm mạc ruột, sự di chuyển của vi khuẩn đường ruột, và một phản ứng viêm có thể dẫn đến sự bóc tách khí vào thành ruột và hệ thống tĩnh mạch cửa. Các trường hợp NEC nặng có thể dẫn đến thủng ruột và khí tự do trong ổ bụng (xem Chương 27).
  • Mặc dù X-quang bụng thường quy là phương pháp được lựa chọn hàng đầu để chẩn đoán NEC, siêu âm có thể bổ sung.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Siêu âm có thể mô tả khí bóc tách vào thành ruột (khí trong thành ruột hoặc pneumatosis intestinalis) (Hình 19.10), khí tự do trong ổ bụng, dày thành ruột, và khí tĩnh mạch cửa (Hình 19.11). Một lượng nhỏ khí khó phát hiện trên X-quang có thể dễ dàng nhìn thấy trên siêu âm.

Hình 19.10 Khí trong thành ruột. Hình ảnh siêu âm của góc phần tư trên trái ở một trẻ sơ sinh cho thấy nhiều ổ tăng âm không phụ thuộc tư thế (mũi tên) đại diện cho khí trong thành ruột phù hợp với khí trong thành ruột từ viêm ruột hoại tử.

Hình 19.11 Khí tĩnh mạch cửa. (A) Siêu âm ngang của gan cho thấy nhiều ổ tăng âm dạng đường và phân nhánh (mũi tên thẳng) kéo dài đến ngoại vi của gan phù hợp với khí tĩnh mạch cửa. (B) Khảo sát Doppler phổ của tĩnh mạch cửa chính ở cùng một bệnh nhân cho thấy các đỉnh nhọn đặc trưng (mũi tên cong) dọc theo dạng sóng phổ do các bọt khí nhỏ đi qua không liên tục trong máu chảy qua tĩnh mạch cửa.

Lồng ruột

  • Lồng ruột xảy ra khi một đoạn ruột lồng vào lòng của một quai ruột liền kề, gây tắc ruột (Hình 19.12). Ở trẻ em, lồng ruột thường xảy ra trong khoảng từ 6 tháng đến 2 tuổi, thường xuyên nhất là lồng hồi-đại tràng (tức là hồi tràng lồng vào đại tràng), và thường có nguồn gốc vô căn.

Hình 19.12 Lồng ruột. (A) Quai ruột lồng vào một quai ruột khác được gọi là khối lồng (intussusceptum) (mũi tên xanh thẳng). Quai ruột nhận đoạn lồng được gọi là quai ruột chứa (intussuscipiens) (mũi tên xanh cong). (B) Hình ảnh siêu âm của bụng trái cho thấy một lồng ruột của ruột non bao gồm khối lồng (mũi tên đứt nét) và quai ruột chứa (mũi tên liền). Lồng ruột xảy ra theo hướng của mũi tên trắng chấm.

  • Về mặt lâm sàng, nó được đặc trưng bởi nôn mửa, đau bụng từng cơn và quặn, và đi ngoài ra máu, mặc dù bộ ba kinh điển này chỉ xảy ra ở khoảng một phần ba số bệnh nhân.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Trên hình ảnh siêu âm ngang, lồng ruột có thể hiển thị hình ảnh bia bắn hoặc bánh donut do nhiều lớp thành ruột tăng âm và giảm âm xen kẽ được ghi hình sát cạnh nhau. Ở mặt phẳng dọc, lồng ruột có thể có hình ảnh ruột trong ruột và đôi khi có thể hiển thị dấu hiệu giả thận (Hình 19.13).

Hình 19.13 Lồng ruột, Hình ảnh ngang và dọc. (A) Trên hình ảnh ngang, lồng ruột có hình dạng bia bắn hoặc bánh donut (hình bầu dục) với mỡ mạc treo tăng âm (F) của khối lồng ở trung tâm được bao quanh bởi thành ruột giảm âm (W) của quai ruột chứa. (B) Trên hình ảnh dọc, vòng thành ruột giảm âm (W) được nhìn thấy bao bọc một phần mỡ mạc treo tăng âm (F), tạo ra cái gọi là dấu hiệu giả thận (mũi tên) vì nó có hình dạng tương tự như hình ảnh dọc của một quả thận bình thường (xem Hình 18.10).

Hẹp phì đại môn vị (HPS)

Hẹp phì đại môn vị xảy ra khi có sự phì đại (dày lên) của cơ môn vị dạ dày dẫn đến tắc nghẽn đường ra của dạ dày. Nó thường biểu hiện ở 4 đến 6 tuần tuổi với nôn không có mật, trở nên thường xuyên hơn và nôn vọt theo thời gian. Môn vị to ra, được gọi là một quả ô liu, có thể sờ thấy ở góc phần tư trên phải hoặc vùng thượng vị ở khoảng 60% đến 80% trẻ sơ sinh.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Siêu âm là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được lựa chọn hàng đầu. Trên siêu âm, cơ môn vị dày hơn 3 mm hoặc kênh môn vị dài hơn 15 mm được coi là bất thường và là dấu hiệu của hẹp phì đại môn vị (Hình 19.14).

Hình 19.14 Hẹp phì đại môn vị. Siêu âm dọc của môn vị (P) ở một trẻ 2 tháng tuổi bị nôn vọt. Dạ dày (ST) và túi mật (GB) cũng có trong hình ảnh. Môn vị có thành dày (mũi tên kép liền) và kênh kéo dài (mũi tên kép đứt nét) phù hợp với hẹp phì đại môn vị.

Siêu âm tại giường (Point-of-Care Ultrasound)

Siêu âm ngày càng được sử dụng tại điểm chăm sóc hoặc tại giường để giúp tạo điều kiện chẩn đoán và định hướng quản lý và điều trị. Siêu âm tại giường (đôi khi được viết tắt là POCUS) là một cuộc khảo sát tập trung cao độ, nhanh chóng xác định sự hiện diện hoặc vắng mặt của một tình trạng bệnh lý cụ thể. Mặc dù cực kỳ hữu ích, nó không thay thế cho việc đánh giá siêu âm thường quy, chi tiết. Các phát hiện tình cờ có thể được phát hiện trong quá trình siêu âm tại giường thường cần theo dõi bằng siêu âm chi tiết để xác định nguyên nhân của chúng.

Đánh giá tập trung bằng siêu âm trong chấn thương (FAST)

Khám FAST là một phần của quy trình Hỗ trợ Sự sống Chấn thương Nâng cao và được thực hiện đồng thời với các biện pháp hồi sức khác ở bệnh nhân chấn thương.

  • Mục tiêu chính của khám FAST là xác định chảy máu trong ổ bụng vì sự hiện diện của tràn máu màng bụng ở một bệnh nhân huyết động không ổn định thường sẽ dẫn đến phẫu thuật mở bụng khẩn cấp.
  • Khám FAST phần lớn đã thay thế rửa phúc mạc chẩn đoán, nhưng CT vẫn nhạy hơn nhiều trong việc phát hiện các tổn thương bụng và ngực.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Một cuộc khám FAST điển hình bao gồm việc tìm kiếm máu hoặc dịch trong màng ngoài tim và màng bụng. Việc tìm kiếm trong màng bụng tập trung vào khu vực giữa gan và thận phải và vùng chậu sau (giữa trực tràng và bàng quang ở nam và giữa trực tràng và tử cung ở nữ) vì chúng là những phần thấp nhất của khoang bụng-chậu khi bệnh nhân nằm ngửa (Hình 19.15).

Hình 19.15 Cổ trướng. Một hình ảnh dọc của góc phần tư trên phải, bao gồm gan (L) và thận phải (K), được hiển thị. Một lượng nhỏ dịch trống âm (dấu hoa thị) có mặt giữa gan và thận, đại diện cho cổ trướng trong túi Morrison. Túi Morrison là phần thấp nhất của màng bụng ở góc phần tư trên phải ở tư thế nằm ngửa và do đó là một trong những khu vực nhạy cảm nhất để đánh giá dịch màng bụng.

Tràn dịch màng phổi

Tràn dịch màng phổi là dịch tích tụ giữa màng phổi lá tạng và lá thành (xem Chương 7). Mặc dù X-quang và CT thường được sử dụng để đánh giá sự hiện diện của tràn dịch màng phổi, siêu âm có thể phát hiện một lượng nhỏ dịch màng phổi và ngày càng được sử dụng tại điểm chăm sóc.

Siêu âm cũng có thể giúp xác định xem một vùng mờ trên X-quang là do dịch màng phổi và/hoặc bệnh nhu mô phổi. Ngoài ra, siêu âm có thể được sử dụng để hướng dẫn chọc dịch màng phổi bằng hình ảnh, đặc biệt nếu lượng dịch nhỏ hoặc dịch bị khu trú.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Một tràn dịch đơn giản sẽ trống âm trên siêu âm và được mô tả là một bộ sưu tập dịch ngay trên cơ hoành. Cơ hoành xuất hiện dưới dạng một cấu trúc cong, tăng âm cao, tiếp giáp với gan (Hình 19.16). Sự hiện diện của các hồi âm trong một tràn dịch gợi ý một tràn dịch tiết, có thể chứa mủ hoặc máu.

Hình 19.16 Tràn dịch màng phổi. Đây là một hình ảnh siêu âm thang xám, dọc của góc phần tư trên phải bao gồm gan (L). Dịch màng phổi (dấu hoa thị) được thể hiện là dịch trống âm phía trên cơ hoành, được mô tả là một cấu trúc cong, tăng âm cao (mũi tên).

Tràn khí màng phổi

Siêu âm đã trở thành một phương thức hữu ích và đáng tin cậy trong chẩn đoán tràn khí màng phổi. Ở bệnh nhân chấn thương, siêu âm đã được chứng minh là nhạy hơn X-quang trong chẩn đoán tràn khí màng phổi nhỏ. Ở bệnh nhân chăm sóc đặc biệt, siêu âm đặc biệt hữu ích vì tràn khí màng phổi nhỏ có thể khó hoặc không thể nhìn thấy trên X-quang ở bệnh nhân nằm ngửa (xem Chương 24).

  • Ở bệnh nhân nằm ngửa, khí từ tràn khí màng phổi sẽ dâng lên phần cao nhất của lồng ngực nằm ở phía trước giữa các khoang liên sườn thứ hai và thứ tư gần đường giữa đòn.
  • Bình thường, màng phổi xuất hiện dưới dạng một đường tăng âm sâu và giữa các xương sườn (Hình 19.17). Trong quá trình siêu âm thời gian thực, màng phổi lá thành và lá tạng thường có thể được nhìn thấy trượt lên nhau khi bệnh nhân thở.

Hình 19.17 Đường màng phổi bình thường. Đây là một hình ảnh siêu âm thang xám, dọc của lồng ngực. Màng phổi được hiển thị là một đường tăng âm cao (mũi tên) giữa các xương sườn (R) và phổi (L).

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Khi bệnh nhân bị tràn khí màng phổi, không khí trong khoang màng phổi ngăn cách màng phổi lá thành và lá tạng, ngăn cản chuyển động trượt và dẫn đến một đường màng phổi tăng âm đứng yên trên siêu âm.

Tràn dịch màng ngoài tim

Siêu âm là một công cụ hữu ích để chẩn đoán tại giường các trường hợp tràn dịch màng ngoài tim và chèn ép tim.

ĐIỂM QUAN TRỌNG

  • Tràn dịch màng ngoài tim sẽ xuất hiện dưới dạng các bộ sưu tập dịch trống âm bao quanh tim (Hình 19.18). Các hồi âm trong dịch sẽ gợi ý tràn máu màng ngoài tim.

Hình 19.18 Tràn dịch màng ngoài tim. Hình ảnh siêu âm thang xám cho thấy dịch giảm âm (mũi tên) xung quanh tim do tràn dịch màng ngoài tim. Nếu chẩn đoán chèn ép tim được đưa ra, việc dẫn lưu khẩn cấp dịch màng ngoài tim bằng chọc dịch màng ngoài tim hoặc phẫu thuật là hướng điều trị thông thường.

  • Chèn ép tim xảy ra khi tràn dịch màng ngoài tim ngăn máu đổ đầy tâm nhĩ phải và tâm thất phải trong thì tâm trương. Nó có thể được gây ra bởi chỉ 50 mL dịch. Siêu âm thời gian thực hữu ích trong việc phát hiện chèn ép tim bằng cách chứng minh sự xẹp hoàn toàn của tâm nhĩ hoặc tâm thất phải hoặc sự phẳng hoặc lõm của thành tâm nhĩ hoặc tâm thất phải trong thì tâm trương.

Chức năng tim

Một số khía cạnh của chức năng tim có thể được đánh giá nhanh chóng tại điểm chăm sóc và có thể có giá trị ở bệnh nhân chấn thương và chăm sóc đặc biệt.

  • Siêu âm tại giường có thể xác định bệnh nhân có cung lượng tim kém bằng cách cho phép ước tính phân suất tống máu thất trái, là tỷ lệ phần trăm máu được bơm ra khỏi tâm thất trái trong thì tâm thu. Bình thường, phân suất tống máu trên 50%.
  • Phân suất tống máu có thể được ước tính một cách chủ quan bằng cách đánh giá trực quan trong quá trình siêu âm thời gian thực dựa trên sự thay đổi kích thước của tâm thất trái giữa cuối tâm trương và cuối tâm thu. Chức năng thất trái giảm nghiêm trọng có mặt khi có sự khác biệt dưới 30% giữa kích thước của tâm thất trái trong cuối tâm trương và cuối tâm thu.
  • Các phương pháp khác để xác định phân suất tống máu bao gồm việc sử dụng các gói phần mềm bổ sung trên máy siêu âm có thể tính toán kích thước thất trái trong cuối tâm trương và cuối tâm thu.
  • Căng thẳng tim phải (tâm thất phải) cũng có thể được đánh giá tại điểm chăm sóc. Nó đề cập đến sự hiện diện của rối loạn chức năng thất phải mà không có bệnh cơ tim tiềm ẩn là nguyên nhân. Nó có thể xảy ra với thuyên tắc phổi, tăng áp động mạch phổi, hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
  • Bình thường, tâm thất phải nhỏ hơn tâm thất trái. Sự to ra của tâm thất phải bằng hoặc lớn hơn tâm thất trái là bất thường và cho thấy căng thẳng tim phải.

Áp lực tĩnh mạch trung tâm

Áp lực tĩnh mạch trung tâm đề cập đến áp lực máu trong tĩnh mạch chủ trong lồng ngực và có thể được đánh giá thông qua siêu âm tại giường.

  • Nhiều nguyên nhân có thể gây tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm, bao gồm suy tim, tăng thể tích tuần hoàn, thuyên tắc phổi lớn, chèn ép tim, tràn khí màng phổi áp lực, tràn dịch màng phổi lớn, và chính thông khí cơ học. Giảm áp lực tĩnh mạch trung tâm có thể xảy ra với giảm thể tích tuần hoàn và sốc.
  • Vì tĩnh mạch chủ là một mạch máu có thành mỏng, nó thường giãn ra và co lại theo nhịp thở.
    • Trong khi hít vào, tĩnh mạch chủ giảm kích thước vì áp lực âm trong lồng ngực cho phép nhiều máu hơn chảy từ tĩnh mạch chủ vào tâm nhĩ phải.
    • Ngược lại, tĩnh mạch chủ tăng kích thước trong khi thở ra khi dòng máu ra khỏi tĩnh mạch chủ giảm với áp lực dương trong lồng ngực.
  • Tĩnh mạch chủ dưới (IVC) thường có đường kính trung bình khoảng 2 cm trong chu kỳ hô hấp (ở bệnh nhân không thở máy). Một đường kính IVC lớn hơn 2 cm trong suốt chu kỳ hô hấp và xẹp dưới 50% vào cuối kỳ hít vào gợi ý tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm (Hình 19.19). Một đường kính IVC nhỏ hơn 2 cm trong suốt chu kỳ hô hấp và xẹp hơn 50% vào cuối kỳ thở ra gợi ý giảm áp lực tĩnh mạch trung tâm.

Hình 19.19 Tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm. Đây là một hình ảnh siêu âm thang xám, dọc của tĩnh mạch chủ dưới (IVC), tim, và các tĩnh mạch gan (mũi tên) được chụp vào cuối kỳ hít vào ở một bệnh nhân bị suy tim sung huyết. IVC đo được 2.5 cm vào cuối kỳ hít vào ở bệnh nhân này, phù hợp với tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm.

Siêu âm mắt

Các trường hợp cấp cứu nhãn khoa chiếm khoảng 3% các lượt khám tại khoa cấp cứu. Vì mắt là một cấu trúc nông, chứa đầy dịch, siêu âm có thể được sử dụng để đánh giá các cấu trúc bên trong của mắt tại điểm chăm sóc, đặc biệt nếu mí mắt bị sưng đóng, ngăn cản việc quan sát trực tiếp bằng kính soi đáy mắt.

  • Các chỉ định phổ biến để thực hiện siêu âm mắt bao gồm chấn thương mắt, giảm hoặc mất thị lực đột ngột, đau mắt, và nghi ngờ dị vật.
  • Mắt nhắm có thể được quét nhẹ nhàng bằng một đầu dò thẳng, tần số cao, cung cấp hình ảnh siêu âm có độ phân giải cao.
  • Các cấu trúc bình thường có thể được nhìn thấy trong siêu âm mắt bao gồm giác mạc, tiền phòng, mống mắt và thể mi, thủy tinh thể, khoang dịch kính, võng mạc, và dây thần kinh thị giác (Hình 19.20).

Hình 19.20 Siêu âm mắt bình thường. Giác mạc (mũi tên liền) được mô tả là một đường tăng âm mỏng ngay dưới mí mắt. Tiền phòng (dấu hoa thị) là một không gian trống âm, chứa đầy dịch phía sau giác mạc. Thủy tinh thể (ngôi sao) là một cấu trúc hình trứng, trống âm giữa mống mắt và thể mi tăng âm (mũi tên đứt nét). Khoang dịch kính là không gian trống âm lớn chứa đầy dịch phía sau thủy tinh thể. Võng mạc (đường cong đứt nét) nằm dọc theo ngoại vi của khoang dịch kính và không thể phân biệt được với các lớp màng mạch trên siêu âm. Dây thần kinh thị giác (mũi tên đen) nằm phía sau nhãn cầu.

  • Các tình trạng bệnh lý trong hốc mắt có thể được chẩn đoán bằng siêu âm mắt tại điểm chăm sóc bao gồm thủng nhãn cầu, bong võng mạc, trật thủy tinh thể, xuất huyết dịch kính, dị vật nội nhãn, và tụ máu sau nhãn cầu.

 

Câu trả lời Tình huống 19

Vòm hoành phải được mô tả bởi đường trắng tăng âm cao (mũi tên). Gan (L) nằm bên dưới nó và có dịch trống âm (dấu hoa thị) phía trên vòm hoành trong góc sườn hoành sau của khoang màng phổi. Đây là vị trí dự kiến cho một tràn dịch màng phổi ở bệnh nhân nằm ngửa.

Ant, Phía trước; F, Phía chân; H, Phía đầu; L, Gan; Post, Phía sau.

NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ

  • Siêu âm mạch máu sử dụng siêu âm thang xám và Doppler để hiển thị đồng thời hình thái của các mạch máu và hướng cũng như vận tốc của dòng máu.
  • Hẹp động mạch đáng kể thường gây ra sự gia tăng vận tốc dòng máu. Siêu âm được sử dụng để đánh giá hẹp động mạch cảnh và bệnh mạch máu ngoại biên, đặc biệt là ở các chi dưới.
  • Một túi giả phình được hình thành khi có sự vỡ hoặc tổn thương thành động mạch, nhưng máu rò rỉ qua chỗ vỡ bị giới hạn bởi một lớp ngoài mỏng, nguyên vẹn của thành động mạch hoặc các mô xung quanh mạch máu. Các túi giả phình có nguy cơ cao bị vỡ thêm và chảy máu.
  • Đánh giá siêu âm huyết khối tĩnh mạch sâu dựa trên nguyên tắc rằng các tĩnh mạch có thành mỏng, đàn hồi, dễ bị đè ép bởi đầu dò siêu âm. Huyết khối trong một tĩnh mạch sẽ ngăn không cho nó bị đè ép dễ dàng. Bản thân huyết khối tăng âm cũng có thể được nhìn thấy trên hình ảnh siêu âm thang xám.
  • Mầm não có một mạng lưới các mạch máu vi thể phong phú có nguy cơ chảy máu ở trẻ sinh non. Xuất huyết mầm xuất hiện dưới dạng vật liệu tăng âm trong rãnh đuôi-đồi thị và có thể lan vào não thất và nhu mô não với bệnh suất và tử suất ngày càng tăng.
  • Loạn sản phát triển khớp háng có thể được đánh giá trên siêu âm ở 4 đến 6 tuần tuổi, trong thời gian đó đầu xương đùi còn là sụn. Một khi đầu xương cốt hóa, cần phải chụp X-quang để đánh giá hình thái ổ cối và vị trí chỏm xương đùi.
  • Viêm ruột hoại tử là một tình trạng tiêu hóa đe dọa tính mạng ở trẻ sơ sinh có thể dẫn đến thủng ruột. Siêu âm có thể bổ sung cho X-quang trong chẩn đoán viêm ruột hoại tử và có khả năng hình dung khí trong thành ruột, khí tự do trong ổ bụng, khí tĩnh mạch cửa, và dày thành ruột.
  • Lồng ruột thường xảy ra trong khoảng từ 6 tháng đến 2 tuổi và thường xuyên nhất là lồng hồi-đại tràng và vô căn. Siêu âm có thể cho thấy hình ảnh ruột trong ruột (giả thận) hoặc hình ảnh bia bắn hoặc bánh donut.
  • Hẹp phì đại môn vị dẫn đến tắc nghẽn đường ra của dạ dày, gây nôn vọt không có mật. Cơ môn vị dày lên bất thường và kênh môn vị kéo dài có thể được mô tả trên siêu âm.
  • Siêu âm tại giường là một cuộc khảo sát tập trung cao độ có thể nhanh chóng xác định sự hiện diện hoặc vắng mặt của một tình trạng bệnh lý cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều trị hoặc thường gợi ý các nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn để đánh giá.
  • Khám đánh giá tập trung bằng siêu âm trong chấn thương (FAST) được sử dụng ở bệnh nhân chấn thương để phát hiện chảy máu trong ổ bụng, đặc biệt ở những người huyết động không ổn định và không thể trải qua hình ảnh CT hoặc siêu âm nhạy hơn.
  • Siêu âm có thể phát hiện một lượng nhỏ dịch màng phổi và có thể được sử dụng để hướng dẫn chọc dịch màng phổi.
  • Ở bệnh nhân nằm ngửa, tràn khí màng phổi dâng lên phần cao nhất của lồng ngực. Bình thường, màng phổi lá thành và lá tạng có thể được nhìn thấy trượt lên nhau trên siêu âm thời gian thực, nhưng tràn khí màng phổi ngăn cản chuyển động trượt đó xảy ra.
  • Tràn dịch màng ngoài tim dễ dàng nhìn thấy trên siêu âm dưới dạng dịch giảm âm hoặc trống âm xung quanh tim. Chèn ép tim xảy ra khi dịch màng ngoài tim ngăn cản sự đổ đầy đầy đủ của tâm nhĩ phải và tâm thất phải.
  • Chức năng tim, bao gồm ước tính phân suất tống máu thất trái, có thể được đánh giá tại giường bằng siêu âm. Bình thường, phân suất tống máu trên 50%.
  • Áp lực tĩnh mạch trung tâm tăng hoặc giảm được mô tả trên siêu âm bằng đường kính của tĩnh mạch chủ dưới trong khi hít vào và thở ra. Tĩnh mạch chủ dưới bình thường thường khoảng 2 cm trong suốt chu kỳ hô hấp.
  • Là một cấu trúc nông, chứa đầy dịch, mắt dễ dàng được đánh giá bằng siêu âm, đặc biệt nếu mí mắt bị sưng đóng ngăn cản việc quan sát trực tiếp. Siêu âm mắt tại điểm chăm sóc có thể được sử dụng để chẩn đoán thủng nhãn cầu, bong võng mạc, trật thủy tinh thể, xuất huyết dịch kính, dị vật, và tụ máu sau nhãn cầu.

 

Bảng chú giải thuật ngữ Y học Anh-Việt. Chương 19

STT Thuật ngữ tiếng Anh Phiên âm IPA Nghĩa Tiếng Việt
1 Vascular Ultrasound /ˈvæskjələr ˌʌltrəˈsaʊnd/ Siêu âm Mạch máu
2 Pediatric /ˌpiːdiˈætrɪk/ Nhi khoa
3 Point-of-Care Ultrasound /pɔɪnt əv kɛər ˌʌltrəˈsaʊnd/ Siêu âm tại giường/tại điểm chăm sóc
4 Congestive heart failure /kənˈdʒɛstɪv hɑːrt ˈfeɪljər/ Suy tim sung huyết
5 B-mode (gray-scale) /biː moʊd (ɡreɪ skeɪl)/ Chế độ B (thang xám)
6 Doppler ultrasonography /ˈdɒplər ˌʌltrəsəˈnɒɡrəfi/ Siêu âm Doppler
7 Duplex sonography /ˈdjuːplɛks səˈnɒɡrəfi/ Siêu âm Duplex
8 Morphologic appearance /ˌmɔːrfəˈlɒdʒɪkəl əˈpɪərəns/ Hình thái
9 Flow direction /floʊ dəˈrɛkʃən/ Hướng dòng chảy
10 Velocity /vəˈlɒsəti/ Vận tốc
11 Color Doppler /ˈkʌlər ˈdɒplər/ Doppler màu
12 Spectral Doppler /ˈspɛktrəl ˈdɒplər/ Doppler phổ
13 Transducer /trænsˈduːsər/ Đầu dò
14 Splenic vein /ˈsplɛnɪk veɪn/ Tĩnh mạch lách
15 Waveform /ˈweɪvˌfɔːrm/ Dạng sóng
16 Baseline /ˈbeɪsˌlaɪn/ Đường cơ sở
17 Main portal vein /meɪn ˈpɔːrtəl veɪn/ Tĩnh mạch cửa chính
18 Cirrhosis /səˈroʊsɪs/ Xơ gan
19 Portal hypertension /ˈpɔːrtəl ˌhaɪpərˈtɛnʃən/ Tăng áp lực tĩnh mạch cửa
20 Arterial spectral Doppler /ɑːrˈtɪəriəl ˈspɛktrəl ˈdɒplər/ Doppler phổ động mạch
21 Vascular bed /ˈvæskjələr bɛd/ Giường mạch
22 Venous waveforms /ˈviːnəs ˈweɪvˌfɔːrmz/ Dạng sóng tĩnh mạch
23 Cardiac function /ˈkɑːrdiˌæk ˈfʌŋkʃən/ Chức năng tim
24 Respiration /ˌrɛspəˈreɪʃən/ Hô hấp
25 Hepatic artery /hɪˈpætɪk ˈɑːrtəri/ Động mạch gan
26 Low resistance /loʊ rɪˈzɪstəns/ Sức cản thấp
27 Cardiac cycle /ˈkɑːrdiˌæk ˈsaɪkəl/ Chu kỳ tim
28 Systole /ˈsɪstəli/ Thì tâm thu
29 Diastole /daɪˈæstəli/ Thì tâm trương
30 Common femoral artery /ˈkɒmən ˈfɛmərəl ˈɑːrtəri/ Động mạch đùi chung
31 High resistance /haɪ rɪˈzɪstəns/ Sức cản cao
32 Extremities /ɪkˈstrɛmətiz/ Các chi
33 Stenosis /stəˈnoʊsɪs/ Hẹp
34 Occluded /əˈkluːdɪd/ Tắc nghẽn
35 Monophasic /ˌmɒnoʊˈfeɪzɪk/ Một pha
36 Arterial Stenosis /ɑːrˈtɪəriəl stəˈnoʊsɪs/ Hẹp động mạch
37 Carotid arteries /kəˈrɒtɪd ˈɑːrtəriz/ Động mạch cảnh
38 Noninvasive assessment /ˌnɒnɪnˈveɪsɪv əˈsɛsmənt/ Đánh giá không xâm lấn
39 Extracranial /ˌɛkstrəˈkreɪniəl/ Ngoài sọ
40 Atherosclerotic disease /ˌæθəroʊskləˈrɒtɪk dɪˈziːz/ Bệnh xơ vữa động mạch
41 Bruits /bruːˈiːz/ Tiếng thổi
42 Preoperative screening /priːˈɒpərətɪv ˈskriːnɪŋ/ Sàng lọc trước phẫu thuật
43 Patency /ˈpeɪtənsi/ Sự thông thoáng
44 Endarterectomy /ˌɛndɑːrtəˈrɛktəmi/ Phẫu thuật cắt bỏ nội mạc
45 Plaque /plæk/ Mảng xơ vữa
46 Peripheral arteries /pəˈrɪfərəl ˈɑːrtəriz/ Động mạch ngoại biên
47 Claudication /ˌklɔːdɪˈkeɪʃən/ Đau cách hồi
48 Hypertension /ˌhaɪpərˈtɛnʃən/ Tăng huyết áp
49 Hyperlipidemia /ˌhaɪpərlɪpɪˈdiːmiə/ Tăng lipid máu
50 Ankle-brachial index (ABI) /ˈæŋkəl ˈbreɪkiəl ˈɪndɛks/ Chỉ số cổ chân-cánh tay
51 Posterior tibial artery /pɒˈstɪəriər ˈtɪbiəl ˈɑːrtəri/ Động mạch chày sau
52 Dorsalis pedis artery /dɔːrˈseɪlɪs ˈpiːdɪs ˈɑːrtəri/ Động mạch mu chân
53 Pseudoaneurysm /ˌsuːdoʊˈænjərɪzəm/ Giả phình mạch
54 Cardiac catheterization /ˈkɑːrdiˌæk ˌkæθətəraɪˈzeɪʃən/ Thông tim
55 Extravasation /ɪkˌstrævəˈseɪʃən/ Thoát mạch
56 True aneurysm /truː ˈænjərɪzəm/ Phình mạch thật
57 Outpouching /aʊtˈpaʊtʃɪŋ/ Túi lồi ra
58 Yin-yang symbol /jɪn jæŋ ˈsɪmbəl/ Biểu tượng âm-dương
59 Thrombin injection /ˈθrɒmbɪn ɪnˈdʒɛkʃən/ Tiêm Thrombin
60 Thrombosis /θrɒmˈboʊsɪs/ Huyết khối
61 Deep Vein Thrombosis (DVT) /diːp veɪn θrɒmˈboʊsɪs/ Huyết khối tĩnh mạch sâu
62 Pulmonary embolism /ˈpʊlmənəri ˈɛmbəˌlɪzəm/ Thuyên tắc phổi
63 Deep femoral vein /diːp ˈfɛmərəl veɪn/ Tĩnh mạch đùi sâu
64 Greater saphenous vein /ˈɡreɪtər səˈfiːnəs veɪn/ Tĩnh mạch hiển lớn
65 Popliteal vein /ˌpɒplɪˈtiːəl veɪn/ Tĩnh mạch khoeo
66 Peroneal veins /ˌpɛrəˈniːəl veɪnz/ Tĩnh mạch mác
67 Internal jugular vein /ɪnˈtɜːrnəl ˈdʒʌɡjələr veɪn/ Tĩnh mạch cảnh trong
68 Subclavian vein /sʌbˈkleɪviən veɪn/ Tĩnh mạch dưới đòn
69 Axillary vein /ˈæksəˌlɛri veɪn/ Tĩnh mạch nách
70 Brachial veins /ˈbreɪkiəl veɪnz/ Tĩnh mạch cánh tay
71 Ionizing radiation /ˈaɪəˌnaɪzɪŋ ˌreɪdiˈeɪʃən/ Bức xạ ion hóa
72 Body habitus /ˈbɒdi ˈhæbɪtəs/ Thể trạng
73 Germinal Matrix Hemorrhage /ˈdʒɜːrmɪnəl ˈmeɪtrɪks ˈhɛmərɪdʒ/ Xuất huyết mầm
74 Sonographic window /ˌsoʊnəˈɡræfɪk ˈwɪndoʊ/ Cửa sổ siêu âm
75 Intracranial /ˌɪntrəˈkreɪniəl/ Nội sọ
76 Neonate /ˈniːəˌneɪt/ Trẻ sơ sinh
77 Fontanelles /ˌfɒntəˈnɛlz/ Thóp
78 Supratentorial /ˌsuːprətɛnˈtɔːriəl/ Trên lều
79 Infratentorial /ˌɪnfrətɛnˈtɔːriəl/ Dưới lều
80 Brain parenchyma /breɪn pəˈrɛŋkɪmə/ Nhu mô não
81 Extraaxial spaces /ˌɛkstrəˈæksiəl ˈspeɪsɪz/ Khoang ngoài trục
82 Morbidity /mɔːrˈbɪdəti/ Bệnh suất
83 Mortality /mɔːrˈtæləti/ Tử suất
84 Premature infants /ˌpriːməˈtʃʊər ˈɪnfənts/ Trẻ sinh non
85 Gestation /dʒɛˈsteɪʃən/ Tuổi thai
86 Gray matter /ɡreɪ ˈmætər/ Chất xám
87 Caudothalamic groove /ˌkɔːdoʊθəˈlæmɪk ɡruːv/ Rãnh đuôi-đồi thị
88 Subependymal region /ˌsʌbɛpənˈdaɪməl ˈriːdʒən/ Vùng dưới màng não thất
89 Caudate nucleus /ˈkɔːdeɪt ˈnuːkliəs/ Nhân đuôi
90 Thalamus /ˈθæləməs/ Đồi thị
91 Ventricle /ˈvɛntrɪkəl/ Não thất
92 Developmental Dysplasia of the Hip (DDH) /dɪˌvɛləpˈmɛntəl dɪsˈpleɪʒə əv ðə hɪp/ Loạn sản phát triển khớp háng
93 Dislocation /ˌdɪsloʊˈkeɪʃən/ Trật khớp
94 Subluxation /ˌsʌblʌkˈseɪʃən/ Bán trật khớp
95 Breech presentation /briːtʃ ˌprɛzənˈteɪʃən/ Ngôi mông
96 Ortolani test /ˌɔːrtəˈlɑːni tɛst/ Nghiệm pháp Ortolani
97 Barlow test /ˈbɑːrloʊ tɛst/ Nghiệm pháp Barlow
98 Acetabulum /ˌæsɪˈtæbjələm/ Ổ cối
99 Femoral head epiphysis /ˈfɛmərəl hɛd ɪˈpɪfəsɪs/ Đầu xương đùi
100 Cartilaginous /ˌkɑːrtəˈlædʒənəs/ Dạng sụn
101 Ossifies /ˈɒsɪfaɪz/ Cốt hóa
102 Radiographs /ˈreɪdioʊˌɡræfs/ X-quang
103 Ilium /ˈɪliəm/ Xương chậu
104 Alpha angle /ˈælfə ˈæŋɡəl/ Góc alpha
105 Necrotizing Enterocolitis (NEC) /ˈnɛkrəˌtaɪzɪŋ ˌɛntəroʊkəˈlaɪtɪs/ Viêm ruột hoại tử
106 Gastrointestinal /ˌɡæstroʊɪnˈtɛstənəl/ Tiêu hóa
107 Intestinal mucosa /ɪnˈtɛstənəl mjuːˈkoʊsə/ Niêm mạc ruột
108 Translocation /ˌtrænsləˈkeɪʃən/ Sự di chuyển
109 Bowel perforation /ˈbaʊəl ˌpɜːrfəˈreɪʃən/ Thủng ruột
110 Intramural gas /ˌɪntrəˈmjʊərəl ɡæs/ Khí trong thành
111 Pneumatosis intestinalis /ˌnuːməˈtoʊsɪs ɪnˌtɛstəˈneɪlɪs/ Khí trong thành ruột
112 Free intraperitoneal gas /friː ˌɪntrəˌpɛrɪtəˈniːəl ɡæs/ Khí tự do trong ổ bụng
113 Portal venous gas /ˈpɔːrtəl ˈviːnəs ɡæs/ Khí tĩnh mạch cửa
114 Intussusception /ˌɪntəsəˈsɛpʃən/ Lồng ruột
115 Telescopes /ˈtɛlɪˌskoʊps/ Lồng vào
116 Bowel obstruction /ˈbaʊəl əbˈstrʌkʃən/ Tắc ruột
117 Ileocolic /ˌɪlioʊˈkɒlɪk/ Hồi-đại tràng
118 Idiopathic /ˌɪdioʊˈpæθɪk/ Vô căn
119 Colicky abdominal pain /ˈkɒlɪki æbˈdɒmɪnəl peɪn/ Đau bụng quặn
120 Target or donut appearance /ˈtɑːrɡɪt ɔːr ˈdoʊnʌt əˈpɪərəns/ Hình ảnh bia bắn hoặc bánh donut
121 Bowel-within-bowel /ˈbaʊəl wɪðˈɪn ˈbaʊəl/ Ruột trong ruột
122 Pseudokidney sign /ˌsuːdoʊˈkɪdni saɪn/ Dấu hiệu giả thận
123 Intussusceptum /ˌɪntəsəˈsɛptəm/ Khối lồng
124 Intussuscipiens /ˌɪntəsəˈsɪpiənz/ Quai ruột chứa
125 Mesenteric fat /ˌmɛsənˈtɛrɪk fæt/ Mỡ mạc treo
126 Hypertrophic Pyloric Stenosis (HPS) /ˌhaɪpərˈtrɒfɪk paɪˈlɔːrɪk stəˈnoʊsɪs/ Hẹp phì đại môn vị
127 Gastric pyloric musculature /ˈɡæstrɪk paɪˈlɔːrɪk ˈmʌskjələtʃər/ Cơ môn vị dạ dày
128 Gastric outlet obstruction /ˈɡæstrɪk ˈaʊtlɛt əbˈstrʌkʃən/ Tắc nghẽn đường ra của dạ dày
129 Nonbilious vomiting /nɒnˈbɪliəs ˈvɒmɪtɪŋ/ Nôn không có mật
130 Projectile /prəˈdʒɛktaɪl/ Nôn vọt
131 Olive /ˈɒlɪv/ Quả ô liu (dấu hiệu)
132 Epigastrium /ˌɛpɪˈɡæstriəm/ Vùng thượng vị
133 Pyloric channel /paɪˈlɔːrɪk ˈtʃænəl/ Kênh môn vị
134 Focused Assessment with Sonography in Trauma (FAST) /ˈfoʊkəst əˈsɛsmənt wɪð səˈnɒɡrəfi ɪn ˈtrɔːmə/ Đánh giá tập trung bằng siêu âm trong chấn thương
135 Resuscitative measures /rɪˈsʌsɪˌteɪtɪv ˈmɛʒərz/ Các biện pháp hồi sức
136 Hemoperitoneum /ˌhiːmoʊˌpɛrɪtəˈniːəm/ Tràn máu màng bụng
137 Hemodynamically unstable /ˌhiːmoʊdaɪˈnæmɪkli ʌnˈsteɪbəl/ Huyết động không ổn định
138 Emergent laparotomy /ɪˈmɜːrdʒənt ˌlæpəˈrɒtəmi/ Phẫu thuật mở bụng khẩn cấp
139 Diagnostic peritoneal lavage /ˌdaɪəɡˈnɒstɪk ˌpɛrɪtəˈniːəl ləˈvɑːʒ/ Rửa phúc mạc chẩn đoán
140 Pericardium /ˌpɛrɪˈkɑːrdiəm/ Màng ngoài tim
141 Peritoneum /ˌpɛrɪtəˈniːəm/ Màng bụng
142 Morrison’s pouch /ˈmɒrɪsənz paʊtʃ/ Túi Morrison
143 Pleural Effusion /ˈplʊərəl ɪˈfjuːʒən/ Tràn dịch màng phổi
144 Visceral pleura /ˈvɪsərəl ˈplʊərə/ Màng phổi lá tạng
145 Parietal pleura /pəˈraɪətəl ˈplʊərə/ Màng phổi lá thành
146 Radiographic opacity /ˌreɪdioʊˈɡræfɪk oʊˈpæsəti/ Vùng mờ trên X-quang
147 Image-guided thoracentesis /ˈɪmɪdʒ ˈɡaɪdɪd ˌθɔːrəsɛnˈtiːsɪs/ Chọc dịch màng phổi dưới hướng dẫn hình ảnh
148 Loculated /ˈlɒkjəˌleɪtɪd/ Khu trú
149 Diaphragm /ˈdaɪəˌfræm/ Cơ hoành
150 Exudative effusion /ɛkˈsjuːdətɪv ɪˈfjuːʒən/ Tràn dịch tiết
151 Pneumothorax /ˌnuːmoʊˈθɔːræks/ Tràn khí màng phổi
152 Critical care patient /ˈkrɪtɪkəl kɛər ˈpeɪʃənt/ Bệnh nhân chăm sóc đặc biệt
153 Intercostal spaces /ˌɪntərˈkɒstəl ˈspeɪsɪz/ Khoang liên sườn
154 Midclavicular line /mɪdkləˈvɪkjələr laɪn/ Đường giữa đòn
155 Pleural line /ˈplʊərəl laɪn/ Đường màng phổi
156 Pericardial Effusion /ˌpɛrɪˈkɑːrdiəl ɪˈfjuːʒən/ Tràn dịch màng ngoài tim
157 Cardiac tamponade /ˈkɑːrdiˌæk ˌtæmpəˈneɪd/ Chèn ép tim
158 Hemopericardium /ˌhiːmoʊˌpɛrɪˈkɑːrdiəm/ Tràn máu màng ngoài tim
159 Pericardiocentesis /ˌpɛrɪˌkɑːrdioʊsɛnˈtiːsɪs/ Chọc dịch màng ngoài tim
160 Right atrium /raɪt ˈeɪtriəm/ Tâm nhĩ phải
161 Right ventricle /raɪt ˈvɛntrɪkəl/ Tâm thất phải
162 Cardiac output /ˈkɑːrdiˌæk ˈaʊtˌpʊt/ Cung lượng tim
163 Left ventricular ejection fraction /lɛft vɛnˈtrɪkjələr ɪˈdʒɛkʃən ˈfrækʃən/ Phân suất tống máu thất trái
164 End-diastole /ɛnd daɪˈæstəli/ Cuối tâm trương
165 End-systole /ɛnd ˈsɪstəli/ Cuối tâm thu
166 Right heart strain /raɪt hɑːrt streɪn/ Căng thẳng tim phải
167 Cardiomyopathy /ˌkɑːrdioʊmaɪˈɒpəθi/ Bệnh cơ tim
168 Pulmonary hypertension /ˈpʊlmənəri ˌhaɪpərˈtɛnʃən/ Tăng áp động mạch phổi
169 Chronic obstructive pulmonary disease /ˈkrɒnɪk əbˈstrʌktɪv ˈpʊlmənəri dɪˈziːz/ Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
170 Central Venous Pressure /ˈsɛntrəl ˈviːnəs ˈprɛʃər/ Áp lực tĩnh mạch trung tâm
171 Intrathoracic vena cava /ˌɪntrəθəˈræsɪk ˌviːnə ˈkeɪvə/ Tĩnh mạch chủ trong lồng ngực
172 Heart failure /hɑːrt ˈfeɪljər/ Suy tim
173 Hypervolemia /ˌhaɪpərvəˈliːmiə/ Tăng thể tích tuần hoàn
174 Tension pneumothorax /ˈtɛnʃən ˌnuːmoʊˈθɔːræks/ Tràn khí màng phổi áp lực
175 Mechanical ventilation /məˈkænɪkəl ˌvɛntəˈleɪʃən/ Thông khí cơ học
176 Hypovolemia /ˌhaɪpoʊvəˈliːmiə/ Giảm thể tích tuần hoàn
177 Shock /ʃɒk/ Sốc
178 Inferior vena cava (IVC) /ɪnˈfɪəriər ˌviːnə ˈkeɪvə/ Tĩnh mạch chủ dưới
179 Hepatic veins /hɪˈpætɪk veɪnz/ Tĩnh mạch gan
180 Ocular Ultrasound /ˈɒkjələr ˌʌltrəˈsaʊnd/ Siêu âm mắt
181 Ophthalmologic emergencies /ˌɒfθælməˈlɒdʒɪk ɪˈmɜːrdʒənsiz/ Cấp cứu nhãn khoa
182 Ophthalmoscope /ɒfˈθælməˌskoʊp/ Kính soi đáy mắt
183 Cornea /ˈkɔːrniə/ Giác mạc
184 Anterior chamber /ænˈtɪəriər ˈtʃeɪmbər/ Tiền phòng
185 Iris /ˈaɪrɪs/ Mống mắt
186 Ciliary body /ˈsɪliˌɛri ˈbɒdi/ Thể mi
187 Lens /lɛnz/ Thủy tinh thể
188 Vitreous chamber /ˈvɪtriəs ˈtʃeɪmbər/ Khoang dịch kính
189 Retina /ˈrɛtənə/ Võng mạc
190 Optic nerve /ˈɒptɪk nɜːrv/ Dây thần kinh thị giác
191 Choroidal layers /kəˈrɔɪdəl ˈleɪərz/ Các lớp màng mạch
192 Globe /ɡloʊb/ Nhãn cầu
193 Globe perforation /ɡloʊb ˌpɜːrfəˈreɪʃən/ Thủng nhãn cầu
194 Retinal detachment /ˈrɛtənəl dɪˈtætʃmənt/ Bong võng mạc
195 Lens dislocation /lɛnz ˌdɪsloʊˈkeɪʃən/ Trật thủy tinh thể
196 Vitreous hemorrhage /ˈvɪtriəs ˈhɛmərɪdʒ/ Xuất huyết dịch kính
197 Intraocular foreign body /ˌɪntrəˈɒkjələr ˈfɒrən ˈbɒdi/ Dị vật nội nhãn
198 Retrobulbar hematoma /ˌrɛtroʊˈbʌlbər ˌhiːməˈtoʊmə/ Tụ máu sau nhãn cầu
199 Hemidiaphragm /ˌhɛmiˈdaɪəˌfræm/ Vòm hoành
200 Costophrenic recess /ˌkɒstoʊˈfrɛnɪk rɪˈsɛs/ Góc sườn hoành