You dont have javascript enabled! Please enable it! [Sách Dịch] Y học Chu phẫu. Chương 44. Phân tích kinh tế trong tối ưu hoá chu phẫu - Y HỌC LÂM SÀNG
Trang chủSách Dịch - Y học Chu Phẫu 2E

[Sách Dịch] Y học Chu phẫu. Chương 44. Phân tích kinh tế trong tối ưu hoá chu phẫu

[Sách Dịch] Y học Chu phẫu. Chương 5. Đánh giá Nguy cơ Tim mạch Chu phẫu trong Phẫu thuật Không phải Tim mạch
[Sách Dịch] Y học Chu phẫu. Lời tựa và Mục lục
[Sách Dịch] Y học Chu phẫu. Chương Cuối. Chuyển tiếp từ bệnh viện về nhà

SÁCH DỊCH “Y HỌC CHU PHẪU: QUẢN LÝ HƯỚNG ĐẾN KẾT QUẢ, ẤN BẢN THỨ 2”
Được dịch và chuyển thể sang tiếng Việt từ sách gốc “Perioperative Medicine: Managing for Outcome, 2nd Edition”
Dịch và chú giải: Ths.Bs. Lê Đình Sáng – Hiệu đính: Ts.Bs.Lê Nhật Huy


CHƯƠNG 44. PHÂN TÍCH KINH TẾ TRONG TỐI ƯU HÓA CHU PHẪU
Economic Analysis of Perioperative Optimization – Thomas L. Archer, Erin Maddy and Alex Macario
Perioperative Medicine, 44, 638-644


Mục tiêu của chương này là làm rõ các điểm sau:

  1. Người nộp thuế, người sử dụng lao động và người lao động ngày càng đòi hỏi ngành y tế phải mang lại giá trị tốt hơn. Các bác sĩ cần y học dựa trên bằng chứng để xác định những can thiệp thực sự có lợi và áp dụng kỹ thuật quản lý hiện đại để triển khai các can thiệp đó.
  2. Các can thiệp chu phẫu là những khoản đầu tư, mỗi can thiệp đều có chi phí và kỳ vọng mang lại lợi ích. Tuy nhiên, lợi ích của can thiệp chu phẫu thường khó định lượng chính xác bằng tiền (ví dụ: giảm đau).
  3. Ba cách đo lường lợi ích của can thiệp y tế là: cải thiện kết quả lâm sàng (hiệu quả), tăng số năm sống có chất lượng (QALY), hoặc quy đổi lợi ích thành giá trị tiền tệ.
  4. Mỗi can thiệp mới cần được đánh giá so sánh với giải pháp thay thế tốt nhất hiện có. Do đó, khái niệm cơ bản là tỷ lệ chi phí-hiệu quả gia tăng.
  5. Do có nhiều bên liên quan trong y tế (người bệnh, nhà cung cấp, người chi trả và toàn xã hội), nghiên cứu kinh tế y tế phải xác định trước và nhất quán trong quan điểm tiếp cận của mình.
  6. Chi phí can thiệp chu phẫu bao gồm chi phí trực tiếp, gián tiếp và vô hình. Chi phí trực tiếp dễ xác định và định lượng nhất, nhưng thay đổi tùy thuộc vào phương pháp tính toán sử dụng. Chi phí trực tiếp giảm theo thời gian nhờ cạnh tranh, đường cong học tập, tiến bộ công nghệ, tái thiết kế quy trình làm việc và tích hợp các can thiệp.
  7. Cần chú trọng nhiều hơn đến việc xác định và giải quyết các rào cản khi triển khai can thiệp có lợi. Các rào cản này bao gồm: thiếu nhận thức (bác sĩ không biết về can thiệp mới), thiếu hiểu biết (biết can thiệp tồn tại nhưng không nắm chi tiết), không đồng thuận (bác sĩ không đồng ý với can thiệp đề xuất), thiếu tự tin (không tin rằng họ có thể thực hiện), thiếu kỳ vọng về kết quả (không tin rằng can thiệp sẽ hiệu quả), cũng như các yếu tố hệ thống không cho phép triển khai thành công.

Với sự già hóa của thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh sau thế chiến thứ II (baby boomers) và sự bùng nổ các lựa chọn công nghệ y tế, các hệ thống y tế toàn cầu, dù là mô hình dịch vụ có thu phí hay tài trợ công, đều đang nỗ lực nâng cao chất lượng và giảm chi phí chăm sóc. Do vậy, việc xác định điều gì thực sự hiệu quả trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Các đối tượng chi trả cuối cùng (người nộp thuế, người sử dụng lao động và người lao động) đòi hỏi ngành y tế phải mang lại giá trị tốt hơn cho số tiền họ bỏ ra. Các chỉ số “chi trả theo hiệu suất” là một nỗ lực của người chi trả nhằm thưởng cho các hệ thống đạt được hiệu quả tối ưu từ ngân sách y tế.

Các bác sĩ trước hết phải xác định được can thiệp chu phẫu nào thực sự có lợi cho người bệnh, sau đó áp dụng các can thiệp đó với chi phí thấp nhất có thể. Đây là mục tiêu luôn thay đổi, do tính hấp dẫn kinh tế của các can thiệp chu phẫu biến động theo thời gian khi có can thiệp mới (ví dụ: thuốc chống đông máu đường uống mới), các can thiệp cũ phát triển (ví dụ: phục hồi chức năng sớm sau phẫu thuật), hoặc khi có những phát hiện mới.

Trong chương này, chúng tôi trình bày khung lý thuyết được sử dụng để phân tích kinh tế các can thiệp, giúp người đọc có thể đánh giá một cách khoa học các nghiên cứu kinh tế về tối ưu hóa chu phẫu.

CAN THIỆP Y TẾ NHƯ NHỮNG KHOẢN ĐẦU TƯ


Kinh tế học mô tả cách con người trong xã hội đáp ứng nhu cầu và mong muốn của họ trong bối cảnh nguồn lực hạn chế. Trong thế kỷ 19 và 20, các nhà kinh tế, chính trị gia và chính khách đã tranh luận về ưu điểm của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do (với quyền tự do lựa chọn cá nhân và tài sản tư nhân) so với kế hoạch hóa tập trung và sở hữu nhà nước về phương tiện sản xuất. Đối với hàng hóa thông thường, cách tiếp cận thị trường tự do cá nhân chiếm ưu thế.

Tuy nhiên, trong y học, nhiều hoạt động kế hoạch hóa tập trung vẫn diễn ra vì người tiêu dùng (người bệnh) thường không trực tiếp chi trả toàn bộ chi phí chăm sóc và thường không đủ khả năng đánh giá chất lượng của dịch vụ y tế. Trong ngôn ngữ kinh tế, bác sĩ là người đại diện cho người bệnh, nghĩa là họ được giao nhiệm vụ ra quyết định và “đầu tư” thay mặt cho người bệnh.

CHI PHÍ VÀ (KỲ VỌNG) LỢI ÍCH

Can thiệp y tế là những khoản đầu tư, tương tự như đầu tư tài chính – có chi phí can thiệp, sau đó là kết quả và hi vọng sẽ mang lại lợi ích.

Đáng tiếc là nhiều thực hành y học chưa được nghiên cứu đầy đủ để xác định liệu chúng có thực sự mang lại lợi ích hay không, khiến một số liệu pháp có giá trị không chắc chắn. Động lực của y học dựa trên bằng chứng là tìm hiểu xem các can thiệp tốn kém có thực sự mang lại lợi ích không. Khi biết rằng một can thiệp thực sự có lợi cho người bệnh, chúng ta phải đánh giá xem lợi ích gia tăng có xứng đáng với chi phí tăng thêm hay không.

Không có can thiệp y tế nào được coi là hiệu quả về chi phí khi đứng riêng lẻ – mà phải được so sánh với phương pháp điều trị thay thế (thường là phương pháp điều trị tiêu chuẩn). Điều này cực kỳ quan trọng. Ví dụ, nếu kỹ thuật giảm đau mới có chi phí 100 đô la và giảm 50% điểm đau sau phẫu thuật, giá trị của nó cần được so sánh với phương pháp điều trị tốt nhất hiện tại để xác định xem có đáng được thực hiện hay không.

Trong y tế – cũng như trong bất kỳ lĩnh vực quản lý nào – chúng ta quản lý ở mức biên, liên tục phân tích lợi ích biên (gia tăng) và so sánh với chi phí biên. Khái niệm phân tích cơ bản của quản lý biên là tỷ lệ chi phí-hiệu quả gia tăng, trong đó chi phí gia tăng của can thiệp mới được chia cho sự gia tăng hiệu quả đạt được.

Nếu kỹ thuật mới đạt kết quả tốt hơn với chi phí thấp hơn (ví dụ: tiêm vắc-xin bại liệt so với điều trị bại liệt), kỹ thuật tiết kiệm chi phí mới được cho là vượt trội so với kỹ thuật cũ và nên trở thành phương pháp điều trị tiêu chuẩn mới. Ví dụ, gây tê dẫn đường bằng siêu âm vượt trội hơn gây tê dẫn đường bằng máy kích thích thần kinh. Tuy nhiên, ví dụ này chưa hoàn hảo, vì gây tê dẫn đường bằng siêu âm đòi hỏi đầu tư ban đầu vào thiết bị và đào tạo.

Can thiệp y tế khác với đầu tư tài chính ở một khía cạnh quan trọng. Lợi ích chính của chăm sóc y tế đối với người bệnh – như cải thiện sức khỏe, cải thiện chức năng và giảm đau – khó định lượng chính xác bằng tiền. Ví dụ, nếu thuốc giảm đau sau phẫu thuật giảm đau 50%, thì giá trị của việc giảm đau đó đáng giá bao nhiêu tiền đối với cả người bệnh và người chi trả?

VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN – NHÀ CUNG CẤP NHƯ NGƯỜI ĐƯỢC ỦY THÁC

Bác sĩ không phải là người hưởng lợi chính từ các can thiệp họ lựa chọn cho người bệnh. Hơn nữa, bác sĩ có thể hưởng lợi từ việc thực hiện các can thiệp có lợi ích không rõ ràng cho người bệnh. Ví dụ, nghiên cứu cho thấy nội soi khớp gối trong điều trị đau khớp gối ở người bệnh trung niên hoặc cao tuổi có lợi ích “không đáng kể” khi so sánh với liệu pháp bảo tồn.

Trong hệ thống cung cấp dịch vụ, những lo ngại về ngân sách riêng có thể cản trở mục tiêu đơn giản là tối đa hóa lợi ích cho người bệnh. Ví dụ, hội đồng dược bệnh viện có thể không muốn làm tăng gánh nặng cho ngân sách dược bằng cách chi thêm tiền cho rivaroxaban, mặc dù có bằng chứng về trải nghiệm tốt hơn của người bệnh và ít xuất huyết gây tử vong hơn với rivaroxaban so với warfarin. Vấn đề “ngăn cách bộ phận” này, khi mỗi đơn vị lo lắng về ngân sách của họ hơn là tác động đến toàn bộ hệ thống y tế, là một thách thức liên tục cần được nhận diện.

Tóm lại, y tế chịu ảnh hưởng bởi vấn đề đại diện: Liệu CEO của một tập đoàn lớn và các thành viên khác của ban lãnh đạo cấp cao (nhà cung cấp và người chi trả) sẽ hành động vì lợi ích của “cổ đông” (người bệnh), hay họ sẽ ưu tiên làm giàu cho bản thân, và chỉ sau đó mới nghĩ đến điều tốt nhất cho cổ đông?

NGHIÊN CỨU KINH TẾ Y TẾ: NHỮNG THÁCH THỨC


QUAN ĐIỂM PHẢI RÕ RÀNG VÀ NHẤT QUÁN

Do có nhiều chủ thể trong y tế, điều cần thiết là chúng ta phải nhất quán trong quan điểm phân tích. Chúng ta đang xem xét vấn đề từ góc nhìn của người bệnh, đơn vị chi trả, nhà cung cấp (bác sĩ, bệnh viện hoặc phòng khám), hay của toàn xã hội?

MỤC TIÊU CỦA CHÚNG TA LÀ XÁC ĐỊNH ĐIỀU GÌ HIỆU QUẢ VÀ CHI PHÍ BAO NHIÊU

Nếu có thể vượt qua những khó khăn trong việc định lượng chi phí và lợi ích bằng tiền và phi tiền tệ của các can thiệp chu phẫu, và nếu chúng ta có thể xác định rõ quan điểm phân tích, chúng ta có thể xây dựng biểu đồ chi tiết về tính hữu ích và chi phí của các can thiệp chu phẫu.

Hội đồng Dịch vụ Y tế Công Hoa Kỳ về Hiệu quả Chi phí trong Y tế khuyến nghị các nghiên cứu nên:

▪ Áp dụng quan điểm xã hội

▪ Sử dụng trọng số ưu tiên từ cộng đồng hoặc người bệnh cho tính hữu ích (thay vì ý kiến chuyên gia)

▪ Sử dụng chi phí ròng (chi phí can thiệp trừ đi tiết kiệm chi phí y tế tương lai)

▪ Sử dụng so sánh gia tăng phù hợp

▪ Chiết khấu chi phí và QALY ở cùng tỷ lệ

Mặc dù có khuyến nghị tiếp cận phân tích từ quan điểm xã hội (từ góc nhìn của tất cả các bên liên quan với mọi kết quả và chi phí), đa số nghiên cứu không tuân theo khuyến nghị này. Tính đến năm 2005, chỉ 29% nghiên cứu liên quan đến QALY bao gồm quan điểm xã hội đầy đủ (hầu hết thiếu các yếu tố chính như vận chuyển và thời gian của người chăm sóc).

Các khuyến nghị đồng thuận được cập nhật vào năm 2016 để bao gồm “trường hợp tham chiếu” và “bảng kiểm kê tác động” nhằm chuẩn hóa phân tích hiệu quả chi phí, cải thiện khả năng so sánh giữa các nghiên cứu. Trường hợp tham chiếu là tập hợp các khuyến nghị bao gồm thành phần phân tích, phương pháp và kỹ thuật báo cáo. Hai trường hợp tham chiếu nên được thực hiện: một từ góc nhìn hệ thống y tế và một từ góc nhìn xã hội. Từ góc nhìn hệ thống y tế, phân tích nên bao gồm tỷ lệ chi phí-hiệu quả gia tăng và lợi ích ròng (sức khỏe hoặc tiền tệ). Trường hợp tham chiếu xã hội nên bao gồm “bảng kiểm kê tác động” đầy đủ – biểu đồ có cấu trúc về hiệu quả và chi phí, với các thành phần như thời gian người bệnh, thời gian người chăm sóc, vận chuyển và tác động đến năng suất. Tất cả phân tích nên giải thích rõ ràng về quan điểm được áp dụng.

Với ngày càng nhiều bằng chứng và áp lực chi phí, các nghiên cứu về chi phí và lợi ích của can thiệp chu phẫu ngày càng được thực hiện nhằm định hướng thực hành của bác sĩ.

RÀO CẢN ĐỂ LÀM ĐIỀU ĐÚNG ĐẮN

Ngay cả khi có thể xác định chính xác chi phí và lợi ích của các can thiệp chu phẫu khác nhau, chúng ta vẫn thấy việc triển khai các can thiệp có lợi đã được chứng minh còn kém xa so với nhận thức về hiệu quả của chúng.

Có nhiều lý do giải thích cho khoảng cách giữa nhận thức về can thiệp có lợi và việc triển khai thực tế, bao gồm:

▪ Thiếu nhận thức: Bác sĩ không biết về can thiệp mới

▪ Thiếu hiểu biết: Bác sĩ biết can thiệp tồn tại nhưng không nắm chi tiết

▪ Thiếu đồng thuận: Bác sĩ không đồng ý với can thiệp được đề xuất

▪ Thiếu tự tin: Bác sĩ không tin họ có thể thực hiện can thiệp

▪ Thiếu kỳ vọng về kết quả: Bác sĩ không tin can thiệp sẽ hiệu quả

▪ Quán tính: Bác sĩ không muốn thay đổi

▪ Rào cản bên ngoài: Bác sĩ muốn thay đổi nhưng quy trình làm việc cồng kềnh và không hiệu quả gây khó khăn

▪ Chỉ khuyến khích bác sĩ làm việc chăm chỉ hơn là không đủ. Nhân viên y tế cần được tái thiết kế quy trình làm việc cùng với các biện pháp khuyến khích cụ thể, tích cực hoặc tiêu cực để thay đổi hành vi.

Mục tiêu là xây dựng sự tuân thủ các thực hành tối ưu vào hệ thống, để chăm sóc tốt nhất trở thành lựa chọn mặc định. Ví dụ, thực hành tốt nhất cho thể tích khí lưu thông đã thay đổi theo thời gian hướng tới “chiến lược thông khí bảo vệ phổi” với thể tích khí lưu thông nhỏ hơn và áp lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP). Thay đổi cài đặt mặc định trên máy gây mê là cách hiệu quả để thay đổi thể tích khí lưu thông và PEEP mà người bệnh nhận được. Cài đặt mặc định tạo điều kiện thay đổi thực hành của bác sĩ mà không tạo thêm phiền phức. Một ví dụ khác là đặt dung dịch sát khuẩn tay ở vị trí thuận tiện và dễ thấy hơn giúp cải thiện tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế, có lẽ do việc thực hiện vệ sinh tay trở nên dễ dàng hơn.

CHI PHÍ – Ý NGHĨA THỰC SỰ LÀ GÌ?


Chi phí có thể được phân tích từ các góc nhìn khác nhau – của người bệnh, nhà cung cấp (bác sĩ, bệnh viện, phòng khám), người chi trả, hoặc toàn xã hội. Ví dụ, chi phí dịch vụ y tế đối với người chi trả (như công ty bảo hiểm) bằng tỷ lệ phần trăm chi phí thực tế được thanh toán. Tuy nhiên, đối với người bệnh, chi phí liên quan là chi phí tự chi trả (phần không được bảo hiểm bao gồm) cộng với các chi phí gián tiếp khác (như mất khả năng làm việc) phát sinh do bệnh tật. Từ góc nhìn xã hội, chi phí của dịch vụ y tế là tổng chi phí của tất cả thành phần khác nhau trong việc cung cấp dịch vụ, cộng với chi phí của bất kỳ hậu quả tương lai nào, như biến chứng hoặc khuyết tật.

Để tối đa hóa tính hữu ích của phân tích cho các đối tượng khác nhau, quan điểm của phân tích cần rõ ràng và phù hợp với đối tượng mục tiêu. Ví dụ, dược sĩ có thể tập trung nhiều hơn vào quan điểm của bệnh viện hoặc nhà cung cấp. Bác sĩ nên đặt ưu tiên cao nhất cho quan điểm của người bệnh, trong khi nhà kinh tế y tế thường tập trung vào phân tích từ góc nhìn xã hội.

Ngoài những khó khăn do quan điểm khác nhau, thuật ngữ chi phí có nhiều ý nghĩa khác nhau.

CHI PHÍ TRỰC TIẾP

Chi phí trực tiếp là giá trị nguồn lực được sử dụng để ngăn ngừa, phát hiện và điều trị suy giảm sức khỏe. Tính chất “trực tiếp” cho thấy có sự liên kết rõ ràng giữa chi tiêu với một người bệnh cụ thể. Ví dụ, kháng sinh dùng cho người bệnh là chi phí y tế trực tiếp vì kháng sinh có thể dễ dàng gắn với người bệnh cụ thể nhận thuốc.

Trong phân tích kinh tế, chi phí trực tiếp nên được ước tính trên cơ sở ròng – nghĩa là tính toán chi phí can thiệp trừ đi khoản tiết kiệm chi phí y tế tương lai. Ví dụ, nếu kháng sinh có thể ngăn ngừa nhiễm trùng vết thương trong tương lai, thì chi phí kháng sinh trong phân tích chi phí-lợi ích nên được giảm bớt bằng khoản tiết kiệm chi phí y tế tương lai. Một ví dụ khác, phạm vi đầy đủ chi phí liên quan đến giảm đau do người bệnh tự kiểm soát đường tĩnh mạch (IV PCA) bao gồm chi phí nhân lực điều dưỡng và dược sĩ, máy bơm và vật tư tiêu hao, chi phí vô hình (như biến cố bất lợi do lỗi lập trình) và các sự cố tiềm ẩn như khoảng trống giảm đau do máy bơm hoặc đường truyền tĩnh mạch không hoạt động.

Phòng khám chu phẫu giúp giảm xét nghiệm, tư vấn chuyên khoa và hủy phẫu thuật. Trong phân tích chi phí-lợi ích của phòng khám chu phẫu, chi phí vận hành nên được giảm bớt bằng khoản tiết kiệm tương lai (như giảm xét nghiệm). Phòng khám tiền phẫu qua điện thoại có lợi ích chi phí bổ sung cho người bệnh nhờ giảm thời gian di chuyển, thời gian người chăm sóc và thời gian người bệnh, trong khi vẫn duy trì lợi ích của phòng khám trực tiếp. Chi phí trực tiếp ròng của phòng khám nên được giảm bằng cả khoản tiết kiệm từ phòng khám chu phẫu đã thảo luận trước đó và khoản tiết kiệm bổ sung cho người bệnh và gia đình. Vấn đề khái niệm, tài chính và chính trị với phương pháp chi phí ròng này là khó khăn trong việc chi tiền ở một khu vực để tiết kiệm tiền ở khu vực khác trong cùng tổ chức. Những người ủng hộ phòng khám tiền phẫu (và các nỗ lực tái thiết kế chăm sóc người bệnh khác) cần chỉ ra cho ban quản trị rằng đầu tư vào phòng khám tiền phẫu có thể mang lại lợi nhuận tài chính lớn ở những nơi khác trong bệnh viện, có thể vượt xa chi phí vận hành phòng khám. Ý tưởng đầu tư vào phòng khám tiền phẫu đang được mở rộng để bao gồm cả môi trường chu phẫu với xu hướng ngày càng tăng hướng tới mô hình nhà chu phẫu như phương pháp giảm chi phí và cải thiện kết quả.

CHI PHÍ GIÁN TIẾP

Chi phí gián tiếp là giá trị sản xuất bị mất đối với xã hội do sự vắng mặt của người bệnh khỏi công việc, khuyết tật hoặc tử vong. Vì chi phí gián tiếp là chi phí “cơ hội” và không trực tiếp ảnh hưởng đến chi tiêu điều trị bệnh, chúng khó đo lường. Theo cách tiếp cận vốn nhân lực, chi phí gián tiếp được ước tính bằng thu nhập bị mất trong thời gian người bệnh vắng mặt tại nơi làm việc.

CHI PHÍ VÔ HÌNH

Chi phí vô hình là một loại chi phí khó đo lường, tương tự như chi phí gián tiếp. Đây là chi phí liên quan đến đau, sự đau khổ, đau buồn và các hậu quả phi tiền tệ khác do bệnh tật và quá trình điều trị y tế gây ra. Mặc dù những chi phí này thường không được đưa vào trực tiếp trong các đánh giá kinh tế, chúng vẫn được ghi nhận gián tiếp thông qua các thang đo chất lượng cuộc sống.

Xét một ví dụ cụ thể: gây tê ngoài màng cứng có chi phí cao hơn so với phương pháp giảm đau đường tĩnh mạch, nhưng lại cung cấp hiệu quả giảm đau chuyển dạ vượt trội hơn. Nghiên cứu ước tính rằng chi phí bổ sung cho xã hội khi sử dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng trong quá trình chuyển dạ dao động từ 259 đến 338 đô la cho mỗi người bệnh (biến động này phụ thuộc vào việc liệu chi phí nhân lực điều dưỡng có tăng theo số lượng ca gây tê ngoài màng cứng hay không). Trong trường hợp này, người bệnh, bác sĩ và toàn xã hội cần phải cân nhắc giữa giá trị vô hình của việc cải thiện giảm đau từ gây tê ngoài màng cứng so với chi phí tăng thêm của phương pháp này.

Đối với vấn đề quản lý đau ở người bệnh phẫu thuật đại trực tràng, các nhà nghiên cứu đã phát triển một thuật toán điều trị đặc biệt nhằm cân bằng giữa hiệu quả giảm đau và chi phí.

CHI PHÍ KHÔNG PHẢI PHÍ TỔN

Chi phí không đồng nghĩa với phí tổn. Ví dụ, chi phí của bệnh viện để cung cấp thuốc thường được hiểu là chi phí mua thuốc cộng với chi phí thực tế để phân phối thuốc cho người bệnh. Ngược lại, phí tổn đề cập đến số tiền mà bác sĩ hoặc cơ sở tính cho công ty bảo hiểm về thuốc đó. Phí tổn thường ít hoặc không liên quan đến chi phí mua, như nhiều người đã biết về viên aspirin giá 10 đô la hay bô nhựa giá 40 đô la tại các bệnh viện.

KỸ THUẬT ƯỚC TÍNH CHI PHÍ

Để ước tính chi phí, có thể sử dụng phương pháp từ trên xuống hoặc từ dưới lên. Một phương pháp từ trên xuống là sử dụng tỷ lệ chi phí-phí tổn, như tỷ lệ mà tất cả bệnh viện Hoa Kỳ cung cấp cho Medicare. Các tỷ lệ này được sử dụng để chuyển đổi dữ liệu hóa đơn bệnh viện (phí tổn) thành chi phí ước tính. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp tỷ lệ chi phí-phí tổn là dữ liệu phí tổn thường có sẵn và việc sử dụng chúng được chấp nhận rộng rãi.

Nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là dữ liệu phí tổn có thể không phản ánh chi phí thực tế cho cơ sở cung cấp dịch vụ, đặc biệt khi bệnh viện tăng phí tổn cho các dịch vụ ở một khu vực để đầu tư vào các bộ phận được hoàn trả kém (như hồ sơ y tế) hoặc để tài trợ cho việc phát triển các chương trình lâm sàng mới. Sự dịch chuyển chi phí này khá phổ biến. Ví dụ, các khu vực của bệnh viện có tỷ lệ chi phí-phí tổn thấp được sử dụng để trợ cấp cho các khu vực có chi phí cao so với phí tổn của chúng.

Một phương pháp từ trên xuống khác là sử dụng nhóm chẩn đoán liên quan Medicare (DRG) để phân loại các đợt chăm sóc. Mặc dù đơn giản và hiệu quả, phương pháp này có hạn chế vì không tính đến sự khác biệt của chăm sóc trong cùng một DRG, hoặc giữa các bệnh viện có hiệu quả vận hành khác nhau.

Tính chi phí từ dưới lên là nỗ lực đo lường chi phí chính xác hơn, vì về lý thuyết, nguồn lực được theo dõi khi diễn ra quá trình chăm sóc. Phương pháp này tách chi phí thành thành phần cố định và biến đổi. Chi phí cố định (như thuê tòa nhà chứa phòng phẫu thuật) không thay đổi tỷ lệ thuận với khối lượng hoạt động, trong khi chi phí biến đổi – như giá của dây thở máy gây mê dùng một lần – gắn liền chặt chẽ với khối lượng sản xuất. Phần lớn chi phí cung cấp dịch vụ chăm sóc bệnh viện liên quan đến tòa nhà, thiết bị và nhân lực trả lương cố định, tất cả đều là chi phí cố định trong ngắn hạn.

Một sự phóng đại sai lầm về chi phí có thể xảy ra khi một phần chi phí cố định được phân bổ vào chi phí biến đổi. Đôi khi nhân viên phòng mổ (OR) nói: “Thời gian phòng mổ có chi phí 40 đô la mỗi phút,” ngụ ý – không chính xác – rằng nếu người bệnh rời phòng mổ sớm hơn 10 phút, sẽ tiết kiệm được 400 đô la. Thực tế là tiền thế chấp, tiền lương nhà quản lý và điều dưỡng đều phải trả, dù người bệnh có ở trong phòng mổ hay không.

Thảo luận tương tự thường xảy ra về việc lựa chọn một loại phương pháp gây mê nhất định (như gây tê vùng so với gây mê toàn thân) có thể tăng lưu lượng người bệnh bằng cách giảm thời gian ở phòng mổ hoặc đơn vị hồi tỉnh (PACU). Điều này chỉ giảm chi phí nếu việc giảm số lượng người bệnh ở PACU thực sự dẫn đến giảm nhân lực.

ĐỘ LỆCH TRONG DỮ LIỆU CHI PHÍ

Một đặc điểm nổi bật của dữ liệu chi phí trong y tế là phân phối bất đối xứng (lệch phải) và phương sai lớn. Ba số đo xu hướng trung tâm của một phân phối là mode (giá trị phổ biến nhất), trung vị và trung bình. Người bệnh chi phí cao (ở phía lệch phải) làm tăng giá trị trung bình nhiều hơn trung vị. Ước tính rằng 5% người bệnh hàng đầu sử dụng 50% chi tiêu y tế, trong khi 50% người bệnh có chi phí thấp nhất chỉ sử dụng 3% chi tiêu y tế.

Nếu thông tin về chi phí của các phương pháp điều trị thay thế được sử dụng để định hướng chính sách y tế, thì tổng ngân sách cần thiết để điều trị người bệnh là yếu tố quan trọng. Ví dụ, nhà hoạch định y tế có thể cần thông tin về tổng ngân sách hàng năm liên quan đến việc cung cấp điều trị tại một bệnh viện cụ thể. Ước tính về tổng chi phí này được lấy từ dữ liệu trong một thử nghiệm bằng cách nhân chi phí trung bình số học trong một nhóm điều trị cụ thể với tổng số người bệnh được điều trị. Do đó, trung bình số học là thước đo thông tin cho dữ liệu chi phí trong các thử nghiệm lâm sàng thực tế.

CHIẾT KHẤU CHI PHÍ TƯƠNG LAI THÀNH GIÁ TRỊ HIỆN TẠI

Chi phí hôm nay không tương đương với chi phí trong tương lai. Ngay cả khi đã tính đến lạm phát, chi phí hoặc kết quả hôm nay không tương đương về giá trị với cùng chi phí hoặc kết quả trong tương lai. Vì mọi người thích có thứ gì đó ngay hôm nay thay vì trong tương lai, giá trị tương lai phải được chiết khấu về hiện tại, thường với tỷ lệ từ 3% đến 7% mỗi năm.

TRIỂN VỌNG TÍCH CỰC: GIẢM CHI PHÍ BIÊN VÀ HIỆU QUẢ CỦA ĐƯỜNG CONG HỌC TẬP

Chi phí biên (chi phí của đơn vị sản xuất tiếp theo) thường giảm theo thời gian. Cả cá nhân và tổ chức đều học hỏi và cải thiện kỹ năng thực hiện nhiệm vụ theo thời gian. Khi một kỹ thuật trở nên phổ biến, mọi người phát triển cách thực hiện dễ dàng hơn. Ví dụ, phòng xét nghiệm lâm sàng bên ngoài thiết lập trạm lấy máu ngay cạnh văn phòng của bác sĩ phẫu thuật bận rộn, giúp tiết kiệm thời gian và đi lại của người bệnh.

Cạnh tranh và tự do đổi mới tạo ra cải tiến quy trình:

Xác định vấn đề → Phát minh phương pháp điều trị mới → Triển khai tốn kém và khó khăn → Thu thập kỹ năng → Tăng khối lượng điều trị → Tăng cạnh tranh giữa nhà cung cấp và người chăm sóc → Giảm chi phí → Thiết lập tiêu chuẩn chăm sóc mới với chi phí biên thấp hơn.

Nhờ đường cong học tập này, những can thiệp thực sự có lợi nên được thực hiện ngay cả khi chi phí ban đầu cao, vì chi phí sẽ giảm theo thời gian nhờ tăng khối lượng, kinh nghiệm và cạnh tranh. Khi thuốc curare được đề xuất như can thiệp mới để ngăn gãy xương trong liệu pháp sốc điện, nó có thể đã bị từ chối vì quá đắt. May mắn thay, đổi mới đã được thực hiện bất chấp chi phí ban đầu cao.

LỢI ÍCH: HIỆU QUẢ LÂM SÀNG VÀ TÍNH HỮU ÍCH

Ba loại lợi ích thường được nghiên cứu trong kinh tế y tế:

▪ Kết quả lâm sàng mong muốn (hiệu quả)

▪ Tăng tính hữu ích (chất lượng và thời gian sống)

▪ Lợi ích quy đổi bằng tiền

Hiệu quả lâm sàng mong muốn là những kết quả đo lường được như:

▪ Kéo dài sự sống

▪ Giảm tỷ lệ biến chứng

▪ Cải thiện chức năng

▪ Xuất viện nhanh hơn

▪ Giảm buồn nôn và nôn sau phẫu thuật

CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG SỐNG VÀ KÉO DÀI TUỔI THỌ

Sức khỏe không chỉ là sửa chữa chấn thương, giảm đau và loại bỏ bệnh tật. Từ năm 1948, Tổ chức Y tế Thế giới đã mở rộng định nghĩa sức khỏe bao gồm trạng thái khỏe mạnh hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội. Ngày nay, chúng ta xem xét tác động của bệnh tật và điều trị đến cuộc sống hàng ngày của người bệnh.

Đối với phân tích chi phí-lợi ích, chất lượng cuộc sống phải được định lượng – chuyển đổi thành các đơn vị có thể so sánh giữa các tình trạng khác nhau. Tính hữu ích là xếp hạng số, hay trọng số ưu tiên, về mức độ mong muốn của trạng thái sức khỏe phản ánh sở thích của một người trên thang tuyến tính từ 0,00 (tử vong) đến 1,00 (sức khỏe hoàn hảo). Giá trị ưu tiên cho trạng thái sức khỏe thường được xác định bằng các kỹ thuật định giá như Phương pháp đánh cược chuẩn, đánh đổi thời gian hoặc thang đo tương tự trực quan.

QALY hiện được sử dụng rộng rãi trong ra quyết định y tế và kinh tế y tế như thước đo kết quả hữu ích phản ánh cả chất lượng cuộc sống và thời gian sống còn. Thước đo tóm tắt một điểm này được tính bằng cách nhân giá trị hữu ích cho một tình trạng sức khỏe nhất định với thời gian tồn tại của nó. Ví dụ, điểm QALY cho một cá nhân có sức khỏe hoàn hảo (với tính hữu ích là 1,0) trong 1 năm (QALY = 1) được coi là tương đương với 2 năm trong trạng thái sức khỏe với tính hữu ích là 0,5 (QALY = 1).

LỢI ÍCH

Thuật ngữ lợi ích được sử dụng theo nghĩa hẹp trong cụm từ “phân tích chi phí-lợi ích” để chỉ một khoản tiền tương đương được gán cho một lợi ích phi tiền tệ.

CÁC LOẠI PHÂN TÍCH KINH TẾ


Ba loại phân tích kinh tế chính trong y tế là phân tích xác định chi phí (hoặc tối thiểu hóa chi phí), phân tích chi phí-hiệu quả (bao gồm phân tích chi phí-lợi ích), và phân tích chi phí-“lợi ích”.

PHÂN TÍCH XÁC ĐỊNH CHI PHÍ (HOẶC TỐI THIỂU HÓA CHI PHÍ)

Phân tích xác định chi phí đơn giản hỏi: “Chi phí của một can thiệp nhất định là bao nhiêu?” Bằng cách tính toán chi phí cung cấp thuốc hoặc tổng chi phí của các dịch vụ y tế sử dụng để điều trị một tình trạng, chi phí của các liệu pháp thay thế có thể được so sánh. Phân tích xác định chi phí đôi khi được gọi là phân tích tối thiểu hóa chi phí, vì thường được sử dụng để xác định phương pháp điều trị nào trong số nhiều phương pháp có chi phí thấp nhất.

Phân tích xác định chi phí giả định rằng kết quả của các liệu pháp là tương đương, do đó mục tiêu là tìm ra phương pháp ít tốn kém nhất để đạt được kết quả tiêu chuẩn. Ví dụ, một nghiên cứu phát hiện chi phí dược của việc cung cấp giảm đau sau phẫu thuật cho người bệnh trải qua phẫu thuật thay khớp chiếm khoảng 3,3% tổng chi phí phẫu thuật. Từ nghiên cứu đó không thể đưa ra nhận định về mức độ hiệu quả của thuốc giảm đau.

PHÂN TÍCH CHI PHÍ-HIỆU QUẢ (BAO GỒM PHÂN TÍCH CHI PHÍ-LỢI ÍCH)

Phân tích chi phí-hiệu quả là đánh giá kinh tế được chấp nhận rộng rãi nhất trong y tế vì chúng đo lường lợi ích theo các thuật ngữ định hướng người bệnh (hiệu quả lâm sàng hoặc chất lượng cuộc sống). Chúng cho phép so sánh giữa các can thiệp khác nhau bằng cách chuẩn hóa mẫu số (hiệu quả lâm sàng hoặc tính hữu ích).

Phân tích chi phí-hiệu quả, khác với phân tích xác định chi phí, kết hợp cả chi phí và hiệu quả. Nó đo lường chi phí ròng gia tăng của việc thực hiện can thiệp (chi tiêu cho can thiệp trừ đi tiết kiệm trong chi phí y tế tương lai) và so sánh với lợi ích biên thu được. Tỷ lệ chi phí-hiệu quả gia tăng (ICER) được định nghĩa bởi phương trình:

ICER = (C2 – C1) / (E2 – E1)

trong đó C2 và E2 là chi phí ròng và hiệu quả của can thiệp mới đang được đánh giá, C1 và E1 là chi phí ròng và hiệu quả của liệu pháp tiêu chuẩn. Trong phân tích chi phí-lợi ích, kết quả được báo cáo dưới dạng $ trên mỗi QALY. Trong các loại phân tích chi phí-hiệu quả khác, kết quả được báo cáo dưới dạng $ trên mỗi hiệu quả lâm sàng mong muốn.

Can thiệp y tế được coi là hiệu quả về chi phí khi tạo ra lợi ích sức khỏe với chi phí tương đương với chi phí của các phương pháp điều trị thông thường được chấp nhận khác. Một hướng dẫn phổ biến là các can thiệp tạo ra 1 QALY (tương đương với 1 năm sức khỏe hoàn hảo) với chi phí dưới 50.000 đô la được coi là hiệu quả về chi phí. Với sự gia tăng chi tiêu y tế, nhiều nghiên cứu đang sử dụng 100.000 đô la trên mỗi QALY làm tiêu chuẩn.

PHÂN TÍCH CHI PHÍ-“LỢI ÍCH”

Phân tích chi phí-“lợi ích”, loại đánh giá kinh tế thứ ba về kết quả y tế, buộc phải đưa ra quyết định rõ ràng về việc lợi ích có đáng với chi phí hay không bằng cách định lượng lợi ích thành tiền, ước tính theo sự sẵn lòng chi trả tối đa của cá nhân. Vì việc chuyển đổi giá trị của lợi ích chăm sóc sức khỏe (như giảm đau đớn và đau khổ) thành tiền rất phức tạp, các nghiên cứu chi phí-lợi ích ít được thực hiện hơn so với nghiên cứu chi phí-hiệu quả. Ví dụ, nếu thuốc giảm đau mang lại hiệu quả giảm đau nhưng chi phí 20 đô la, phân tích chi phí-lợi ích sẽ gặp thách thức phương pháp luận trong việc đặt giá trị bằng tiền cho hiệu quả giảm đau.

Một ví dụ gần đây về phân tích chi phí-lợi ích phát hiện rằng việc duy trì xe cấp cứu tăng thân nhiệt ác tính ở mỗi đơn vị sản khoa tại Hoa Kỳ sẽ giảm chi phí bệnh tật và tử vong 3.304.641 đô la mỗi năm trên toàn quốc nhưng sẽ tốn 5.927.040 đô la hàng năm. Kết quả này chủ yếu do tỷ lệ gây mê toàn thân cực kỳ thấp. Nếu tỷ lệ sinh mổ ở Hoa Kỳ duy trì ở mức 32% tổng số ca sinh, tỷ lệ gây mê toàn thân sẽ phải lớn hơn 11% mới đạt được lợi ích chi phí. Nghiên cứu kết luận rằng việc duy trì xe cấp cứu tăng thân nhiệt ác tính với nguồn dantrolene đầy đủ trong vòng 10 phút từ các đơn vị sản khoa là không hợp lý về mặt kinh tế. Thay vào đó, khuyến nghị các bệnh viện thiết lập chiến lược thay thế (như duy trì một lượng nhỏ dantrolene tại đơn vị sản khoa để bắt đầu điều trị khẩn cấp).

CÂY QUYẾT ĐỊNH

Cây quyết định đánh giá chi phí và lợi ích khi kết quả không chắc chắn nhưng xác suất của các kết quả có thể được ước tính.

Mặc dù có vẻ chính xác về mặt toán học, cây quyết định chỉ tốt như các giả định của chúng.

Để cây quyết định có ý nghĩa, các câu hỏi sau đây là quan trọng:

  1. Tất cả các can thiệp liên quan để giúp người bệnh đã được xem xét chưa?
  2. Tất cả các lợi ích và biến chứng có thể xảy ra mà mỗi can thiệp có thể gây ra đã được xem xét chưa?
  3. Chi phí của mỗi kết quả chu phẫu có thể xảy ra đối với người bệnh, cả về mặt tiền tệ và phi tiền tệ, đã được đánh giá chưa?
  4. Xác suất của các kết quả khác nhau với và không có can thiệp đang xem xét đã được ước tính chính xác chưa?

PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY

Phân tích độ nhạy là cần thiết để đánh giá tác động của việc thay đổi các biến số quan trọng đến kết quả cuối cùng của mô hình. Khi thực hiện nghiên cứu mô hình hóa kinh tế, có hai cách tiếp cận riêng biệt: tần suất và Bayes. Trong cách tiếp cận tần suất, các tham số không xác định được giả định là các đại lượng cố định và không ngẫu nhiên (nhưng không biết) không có phân phối xác suất liên quan. Chiến thuật thường dùng để đối phó với sự không chắc chắn này là thực hiện phân tích độ nhạy bằng cách thay đổi ước tính trong phạm vi cho tham số được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng hoặc tài liệu đã xuất bản và quan sát tác động của sự thay đổi này đến kết quả. Điều này phức tạp vì khó trình bày kết quả của việc thay đổi ba hoặc nhiều ước tính cùng lúc.

Phương pháp thay thế và hiện được sử dụng phổ biến là khung Bayes, trong đó các tham số trong mô hình là các biến ngẫu nhiên, mỗi biến có phân phối xác suất riêng. Ví dụ, trong phân tích chi phí-lợi ích của cây quyết định, xác suất, chi phí và tính hữu ích của mỗi kết quả và thời gian sống còn đều được giả định là các biến, mỗi biến có phạm vi giá trị có thể có trong phân phối xác suất. Một chương trình máy tính được lập trình để chọn ngẫu nhiên một giá trị từ phân phối giá trị của mỗi tham số. Trong phân tích Monte Carlo, quy trình này được lặp lại nhiều lần và tính toán giá trị trung bình và phương sai của tất cả kết quả cuối cùng từ tất cả các lần chạy. Phân tích độ nhạy xác suất này thường giả định rằng giá trị của các tham số độc lập với nhau.

Khung Bayes đặc biệt hữu ích trong việc xem xét sự không chắc chắn trong tất cả các tham số cùng lúc. Quan trọng là mô hình Bayes này có thể tạo ra kết quả khác với phân tích đơn giản dựa trên ước tính điểm của xác suất và chi phí.

KẾT LUẬN


Phân tích kinh tế có thể giúp chúng ta quyết định liệu can thiệp y tế có lợi có “đáng với chi phí” về mặt lý thuyết hay không. Nhưng để thực sự cải thiện chăm sóc y tế – để triển khai những đổi mới có giá trị đã được chứng minh – điều cần thiết là phải tính đến bản chất con người. Để trở thành nhà quản lý y tế thành công, chúng ta phải nhớ rằng quán tính và thói quen đóng vai trò lớn trong chăm sóc y tế, rằng chúng ta nên làm cho việc thực hiện điều đúng trở nên dễ dàng, rằng con người đáp ứng tốt hơn với các biện pháp khuyến khích hơn là những lời khuyên, và rằng cạnh tranh thúc đẩy đổi mới và cải tiến. Là bác sĩ, chúng ta cũng luôn phải nhớ rằng “quan điểm” của chúng ta nên xuất phát trước hết từ người bệnh.

TÓM LƯỢC Ý CHÍNH:

HẾT CHƯƠNG 44.

Bảng chú giải thuật ngữ Anh – Việt – Chương 44.

STT Thuật ngữ tiếng Anh Cách phát âm Nghĩa Tiếng Việt 
1 Economic analysis /ˌiːkəˈnɒmɪk əˈnæləsɪs/ Phân tích kinh tế
2 Perioperative optimization /ˌpɛrioʊˈpɛrətɪv ˌɒptɪmaɪˈzeɪʃən/ Tối ưu hóa chu phẫu (liên quan đến giai đoạn trước, trong và sau phẫu thuật)
3 Evidence-based medicine /ˈɛvɪdəns beɪst ˈmɛdɪsɪn/ Y học dựa trên bằng chứng
4 Medical intervention /ˈmɛdɪkəl ˌɪntəˈvɛnʃən/ Can thiệp y tế
5 Investment /ɪnˈvɛstmənt/ Khoản đầu tư
6 Benefit /ˈbɛnɪfɪt/ Lợi ích
7 Clinical effectiveness /ˈklɪnɪkəl ɪˈfɛktɪvnəs/ Hiệu quả lâm sàng
8 Quality-adjusted life year (QALY) /ˈkwɒlɪti əˈdʒʌstɪd laɪf jɪə/ Năm sống có chất lượng (đơn vị đo lường kết quả sức khỏe kết hợp cả chất lượng và thời gian sống)
9 Monetary benefit /ˈmʌnɪtəri ˈbɛnɪfɪt/ Lợi ích quy đổi bằng tiền
10 Incremental cost-effectiveness ratio (ICER) /ˌɪnkrəˈmɛntl kɒst ɪˈfɛktɪvnəs ˈreɪʃiəʊ/ Tỷ lệ chi phí-hiệu quả gia tăng (chi phí gia tăng chia cho hiệu quả gia tăng)
11 Stakeholders /ˈsteɪkˌhoʊldərz/ Các bên liên quan
12 Direct costs /daɪˈrɛkt kɒsts/ Chi phí trực tiếp (chi phí liên quan trực tiếp đến điều trị)
13 Indirect costs /ˌɪndaɪˈrɛkt kɒsts/ Chi phí gián tiếp (chi phí từ mất sản xuất, vắng mặt khỏi công việc)
14 Intangible costs /ɪnˈtændʒəbl kɒsts/ Chi phí vô hình (chi phí của đau, đau khổ, buồn bã)
15 Learning curve /ˈlɜːnɪŋ kɜːv/ Đường cong học tập
16 Agent /ˈeɪdʒənt/ Người đại diện
17 Principal /ˈprɪnsəpl/ Người ủy thác
18 Agency problem /ˈeɪdʒənsɪ ˈprɒbləm/ Vấn đề đại diện
19 Pay-for-performance /peɪ fər pərˈfɔːməns/ Chi trả theo hiệu suất
20 Free market capitalism /friː ˈmɑːkɪt ˈkæpɪtəlɪzəm/ Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do
21 Central planning /ˈsɛntrəl ˈplænɪŋ/ Kế hoạch hóa tập trung
22 Marginal analysis /ˈmɑːdʒɪnəl əˈnæləsɪs/ Phân tích biên
23 Marginal benefit /ˈmɑːdʒɪnəl ˈbɛnɪfɪt/ Lợi ích biên
24 Marginal cost /ˈmɑːdʒɪnəl kɒst/ Chi phí biên
25 Dominant strategy /ˈdɒmɪnənt ˈstrætədʒi/ Chiến lược vượt trội
26 Cost-saving /kɒst ˈseɪvɪŋ/ Tiết kiệm chi phí
27 Ultrasound-guided nerve block /ˈʌltrəsaʊnd ˈɡaɪdɪd nɜːv blɒk/ Khối thần kinh dẫn hướng bằng siêu âm
28 Nerve stimulator-guided nerve block /nɜːv ˈstɪmjʊleɪtə ˈɡaɪdɪd nɜːv blɒk/ Khối thần kinh dẫn hướng bằng máy kích thích thần kinh
29 Silo problem /ˈsaɪləʊ ˈprɒbləm/ Vấn đề “ngăn cách bộ phận” (các bộ phận làm việc riêng biệt, thiếu phối hợp)
30 Perspective /pəˈspɛktɪv/ Quan điểm (góc nhìn)
31 Societal perspective /səˈsaɪətl pəˈspɛktɪv/ Quan điểm xã hội
32 Payer perspective /ˈpeɪə pəˈspɛktɪv/ Quan điểm người chi trả
33 Provider perspective /prəˈvaɪdə pəˈspɛktɪv/ Quan điểm nhà cung cấp
34 Patient perspective /ˈpeɪʃənt pəˈspɛktɪv/ Quan điểm người bệnh
35 Reference case /ˈrɛfərəns keɪs/ Trường hợp tham chiếu
36 Impact inventory /ˈɪmpækt ˈɪnvəntri/ Bảng kiểm kê tác động
37 Implementation barrier /ˌɪmplɪmɛnˈteɪʃən ˈbæriə/ Rào cản triển khai
38 Inertia /ɪˈnɜːʃə/ Quán tính
39 Incentive /ɪnˈsɛntɪv/ Khuyến khích
40 Workflow redesign /ˈwɜːkfləʊ ˌriːdɪˈzaɪn/ Thiết kế lại quy trình làm việc
41 Default setting /dɪˈfɒlt ˈsɛtɪŋ/ Cài đặt mặc định
42 Lung-protective ventilation strategy /lʌŋ prəˈtɛktɪv ˌvɛntɪˈleɪʃən ˈstrætədʒi/ Chiến lược thông khí bảo vệ phổi
43 Tidal volume /ˈtaɪdl ˈvɒljuːm/ Thể tích khí lưu thông
44 Positive end-expiratory pressure (PEEP) /ˈpɒzɪtɪv ɛnd ɪkˈspaɪərətri ˈprɛʃə/ Áp lực dương cuối kỳ thở ra
45 Opportunity cost /ˌɒpəˈtjuːnɪti kɒst/ Chi phí cơ hội
46 Human capital approach /ˈhjuːmən ˈkæpɪtl əˈprəʊtʃ/ Cách tiếp cận vốn nhân lực
47 Epidural analgesia /ˌɛpɪˈdjʊərəl ænəlˈdʒiːziə/ Giảm đau ngoài màng cứng
48 Intravenous analgesia /ˌɪntrəˈviːnəs ænəlˈdʒiːziə/ Giảm đau đường tĩnh mạch
49 Labor pain /ˈleɪbə peɪn/ Đau chuyển dạ
50 Malignant hyperthermia cart /məˈlɪɡnənt ˌhaɪpəˈθɜːmiə kɑːt/ Xe cấp cứu tăng thân nhiệt ác tính
51 Cost-to-charge ratio /kɒst tuː tʃɑːdʒ ˈreɪʃiəʊ/ Tỷ lệ chi phí-phí tổn
52 Top-down costing /tɒp daʊn ˈkɒstɪŋ/ Tính chi phí từ trên xuống
53 Bottom-up costing /ˈbɒtəm ʌp ˈkɒstɪŋ/ Tính chi phí từ dưới lên
54 Fixed costs /fɪkst kɒsts/ Chi phí cố định
55 Variable costs /ˈveəriəbl kɒsts/ Chi phí biến đổi
56 Medicare Diagnosis-Related Group (DRG) /ˈmɛdɪkeə daɪəɡˈnəʊsɪs rɪˈleɪtɪd ɡruːp/ Nhóm chẩn đoán liên quan Medicare
57 Operating room (OR) /ˈɒpəreɪtɪŋ ruːm/ Phòng mổ
58 Post-anesthesia care unit (PACU) /pəʊst ˌænɪsˈθiːziə keə ˈjuːnɪt/ Đơn vị chăm sóc hậu gây mê
59 Skewed distribution /skjuːd ˌdɪstrɪˈbjuːʃən/ Phân phối lệch
60 Right-skewed /raɪt skjuːd/ Lệch phải
61 Measures of central tendency /ˈmɛʒəz əv ˈsɛntrəl ˈtɛndənsi/ Các số đo xu hướng trung tâm
62 Mode /məʊd/ Mode (giá trị xuất hiện nhiều nhất)
63 Median /ˈmiːdiən/ Trung vị
64 Mean /miːn/ Trung bình
65 Discounting /dɪsˈkaʊntɪŋ/ Chiết khấu
66 Present value /ˈprɛznt ˈvæljuː/ Giá trị hiện tại
67 Future value /ˈfjuːtʃə ˈvæljuː/ Giá trị tương lai
68 Competition /ˌkɒmpɪˈtɪʃən/ Cạnh tranh
69 Innovation /ˌɪnəˈveɪʃən/ Đổi mới
70 Process improvement /ˈprəʊsɛs ɪmˈpruːvmənt/ Cải tiến quy trình
71 Standard of care /ˈstændəd əv keə/ Tiêu chuẩn chăm sóc
72 Utility /juːˈtɪlɪti/ Tính hữu ích
73 Preference weight /ˈprɛfərəns weɪt/ Trọng số ưu tiên
74 Standard gamble /ˈstændəd ˈɡæmbl/ Phương pháp đánh cược chuẩn (phương pháp đo lường giá trị sức khỏe)
75 Time trade-off /taɪm treɪd ɒf/ Đánh đổi thời gian (phương pháp đo lường giá trị sức khỏe)
76 Visual analog scale /ˈvɪʒuəl ˈænəlɒɡ skeɪl/ Thang đo tương tự trực quan
77 Cost-identification analysis /kɒst aɪˌdɛntɪfɪˈkeɪʃən əˈnæləsɪs/ Phân tích xác định chi phí
78 Cost-minimization analysis /kɒst ˌmɪnɪmaɪˈzeɪʃən əˈnæləsɪs/ Phân tích tối thiểu hóa chi phí
79 Cost-effectiveness analysis /kɒst ɪˈfɛktɪvnəs əˈnæləsɪs/ Phân tích chi phí-hiệu quả
80 Cost-utility analysis /kɒst juːˈtɪlɪti əˈnæləsɪs/ Phân tích chi phí-lợi ích
81 Cost-benefit analysis /kɒst ˈbɛnɪfɪt əˈnæləsɪs/ Phân tích chi phí-“lợi ích”
82 Willingness to pay /ˈwɪlɪŋnəs tə peɪ/ Sự sẵn lòng chi trả
83 Cesarean delivery rate /sɪˈzeəriən dɪˈlɪvəri reɪt/ Tỷ lệ sinh mổ
84 General anesthesia /ˈdʒɛnərəl ˌænɪsˈθiːziə/ Gây mê toàn thân
85 Dantrolene /ˈdæntrəliːn/ Dantrolene (thuốc điều trị tăng thân nhiệt ác tính)
86 Decision tree /dɪˈsɪʒən triː/ Cây quyết định
87 Sensitivity analysis /ˌsɛnsɪˈtɪvɪti əˈnæləsɪs/ Phân tích độ nhạy
88 Frequentist approach /ˈfriːkwəntɪst əˈprəʊtʃ/ Phương pháp tần suất
89 Bayesian framework /ˈbeɪziən ˈfreɪmwɜːk/ Khung Bayes
90 Monte Carlo analysis /ˈmɒnteɪ ˈkɑːləʊ əˈnæləsɪs/ Phân tích Monte Carlo
91 Probabilistic sensitivity analysis /ˌprɒbəbɪˈlɪstɪk ˌsɛnsɪˈtɪvɪti əˈnæləsɪs/ Phân tích độ nhạy xác suất
92 Random variable /ˈrændəm ˈveəriəbl/ Biến ngẫu nhiên
93 Probability distribution /ˌprɒbəˈbɪlɪti ˌdɪstrɪˈbjuːʃn/ Phân phối xác suất
94 Parameter uncertainty /pəˈræmɪtə ʌnˈsɜːtnti/ Sự không chắc chắn của tham số
95 Point estimate /pɔɪnt ˈɛstɪmət/ Ước tính điểm
96 Regional anesthesia /ˈriːdʒənl ˌænɪsˈθiːziə/ Gây tê vùng
97 Patient-controlled analgesia (PCA) /ˈpeɪʃənt kənˈtrəʊld ænəlˈdʒiːziə/ Giảm đau do người bệnh kiểm soát
98 Preoperative clinic /ˌpriːˈɒpərətɪv ˈklɪnɪk/ Phòng khám tiền phẫu
99 Enhanced Recovery After Surgery (ERAS) /ɪnˈhɑːnst rɪˈkʌvəri ˈɑːftə ˈsɜːdʒəri/ Phục hồi nhanh sau phẫu thuật
100 Perioperative home /ˌpɛrioʊˈpɛrətɪv həʊm/ Nhà chu phẫu (mô hình cung cấp dịch vụ chu phẫu tại nhà)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Abrahams M.S., Aziz M.F., Fu R.F., et. al.: Ultrasound guidance compared with electrical neurostimulation for peripheral nerve block: A systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials. Br J Anaesth 2009; 102: pp. 408-417.
  2. Thorlund J.B., Juhl C.B., Roos E.M., et. al.: Arthroscopic surgery for degenerative knee: Systematic review and meta-analysis of benefits and harms. Br J Sports Med 2015; 350: pp. h2747.
  3. Patel M.R., Mahaffey K.W., Garg J., et. al.: Rivaroxaban versus warfarin in nonvalvular atrial fibrillation. N Engl J Med 2011; 365: pp. 883-891.
  4. Weinstein M.C., Siegel J.E., Gold M.R., et. al.: Recommendations of the panel on cost-effectiveness in health and medicine. JAMA 1996; 276: pp. 1253-1258.
  5. Sanders G.D., Neumann P.J., Basu A., et. al.: Recommendations for conduct, methodological practices, and reporting of cost-effectiveness analyses second panel on cost-effectiveness in health and medicine. JAMA 2016; 316: pp. 1093-1103.
  6. Lim G., Melnyk V., Facco F.L., Waters J.H., et. al.: Cost-effectiveness analysis of intraoperative cell salvage for obstetric hemorrhage. Anesthesiology 2018; 128: pp. 328-337.
  7. Aderibigbe T., Lang B.H., Rosenberg H., et. al.: Cost-effectiveness analysis of stocking dantrolene in ambulatory surgery centers for the treatment of malignant hyperthermia. Anesthesiology 2014; 120: pp. 1333-1338.
  8. Cruz Eng H., Riazi S., Veillette C., et. al.: An expedited care pathway with ambulatory brachial standard inpatient care after complex arthroscopic. Anesthesiology 2015; 123: pp. 1256-1266.
  9. Quick A., Brock-Utne J., Jaffe R., et. al.: A case illustrating the costs of quality improvement: Nine months to move needles and syringes on the anesthesia cart. A A Case Rep 2015; 5: pp. 88-90.
  10. Chiao S.S., Colquhoun D.A., Naik B.I., et. al.: Changing default ventilator settings on anesthesia machines improves adherence to lung-protective ventilation measures. Anesth Analg 2018; 126: pp. 1219-1222.
  11. Cure L., Van Enk R.: Effect of hand sanitizer location on hand hygiene compliance. Am J Infect Control 2015; 43: pp. 917-921.
  12. Macario A.: Systematic literature review of economics of IV patient controlled analgesia. Pharm Ther 2005; 30: pp. 392-399.
  13. Blitz J.D., Kendale S.M., Jain S.K., et. al.: Preoperative evaluation clinic visit is associated with decreased risk of in-hospital postoperative mortality. Anesthesiology 2016; 125: pp. 280-294.
  14. Ferschl M., Tung A., Sweitzer B., et. al.: Preoperative clinic visits reduce operating room cancellations and delays. Anesthesiology 2005; 103: pp. 855-885.
  15. Fischer S.: Development and effectiveness of an anesthesia preoperative evaluation clinic in a teaching hospital. Anesthesiology 1996; 85: pp. 196-206.
  16. Tariq H., Ahmed R., Kulkarni S., et. al.: Development, functioning, and effectiveness of a preoperative risk assessment clinic. Heal Serv Insights 2016; 9: pp. 1-7.
  17. Yen C., Macario A.T.M.: Preoperative evaluation clinics. Curr Opin Anaesthesiol 2010; 23: pp. 167-172.
  18. Robinson R., Wirt T.C., Barbosa C., et. al.: The journal of foot & ankle surgery routine use of low-molecular-weight heparin for deep venous thrombosis prophylaxis after foot and ankle surgery : A cost-effectiveness analysis. J Foot Ankle Surg 2018; 57: pp. 543-551.
  19. Liljas B.: How to calculate indirect costs in economic evaluations. Pharmacoeconomics 1998; 13: pp. 1-7. Pt 1
  20. Macario A., Navarro J., Riley E., et. al.: Analgesia for labor pain: An economic model. Anesthesiology 2000; 92: pp. 841-850.
  21. Mcevoy M.D., Scott M.J., Gordon D.B., et. al.: American Society for Enhanced Recovery (ASER) and Perioperative Quality Initiative (POQI) joint consensus statement on optimal analgesia within an enhanced recovery pathway for colorectal surgery : Part 1 — from the preoperative period to PACU. Perioper Med (Lond) 2017; pp. 1-13.
  22. Macario A., Vitez T., Dunn B., et. al.: Hospital costs and severity of illness in three types of elective surgery. Anesthesiology 1997; 86: pp. 92-100.
  23. Macario A., Vitez T., Dunn B., et. al.: What does perioperative care really cost? Analysis of hospital costs and charges for inpatient surgical care. Anesthesiology 1995; 83: pp. 1138-1144.
  24. Childers C.P., Maggard-Gibbons M.: Understanding Costs of Care in the Operating Room. JAMA Surg 2018; 153: pp. 1-7. e176233
  25. Macario A.: What does one minute of operating room time cost?. J Clin Anesth 2010; 22: pp. 233-236.
  26. Stanton M., Rutherford M.: The high concentration of U.S. health care expenditures. Rockville (MD): Agency for Healthcare Research and Quality; 2005. Research in Action Issue 19. AHRQ Pub. No. 06-0060. Res Action 2006; pp. 1-11.
  27. Thompson S., Barber J.A.: How should cost data in pragmatic randomized trials be analyzed?. BMJ 2000; 320: pp. 1197-1200.
  28. Froberg D., Kane R.L.: Methodology for measuring health-state preferences-II: Scaling methods. J Clin Epidemiol 1989; pp. 459-471.
  29. Torrance G.: Social preferences for health states: An empirical evaluation of three measurement techniques. Socio-Econom Plann Sci 1976; 10: pp. 129-136.
  30. Macario A., McCoy M.: The pharmacy cost of delivering postoperative analgesia to patients undergoing joint replacement surgery. J Pain 2003; 4: pp. 22-28.
  31. Ho P., Sun E., Macario A., et. al.: Cost-benefit analysis of maintaining a fully stocked malignant hyperthermia cart versus an initial dantrolene treatment dose for maternity units. Anesthesiology 2018; 129: pp. 249-259.
  32. Strauss S., Richardson W., Glasziou P., et. al.: Evidence-Based Medicine: How to Practice and Teach EBM.ed #32005.Churchill LivingstonNew York
  33. Mullahy J., Manning W.: Valuing health care: Costs, benefits, and effectiveness of pharmaceuticals and other medical technologies.Sloan F.A.Statistical Issues in Cost-Effectiveness Analyses.1995.Cambridge University PressNew York:pp. 149-184.
  34. Doubilet P., Weinstein M., Begg C., et. al.: Probabilistic sensitivity analysis using Monte-Carlo simulation. Med Dec Mak 1985; 5: pp. 157-177. x