Trang chủNội khoa

Bệnh Hạ Cam

PHÁC ĐỒ SỬ DỤNG KHÁNG ĐÔNG TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ NGOẠI TIM MẠCH
Cấp cứu tim mạch: Thuyên tắc động mạch phổi
Chẩn đoán và xử trí suy tim cấp
Bài giảng Bệnh lý tuyến giáp trong thai kỳ
Xét nghiệm Glucose niệu

Nguyên nhân

Bệnh hạ cam là một BLQĐTD do vi khuẩn Haemophilus, là vi khuẩn gram âm, yếm khí, ưa máu.

Chẩn đoán

Dựa vào lâm sàng và cận lâm sàng.

Lâm sàng

Tổn thương là vết loét mềm ở sinh dục xuất hiện 3-5 ngày sau khi lây bệnh.

Trái với giang mai loét không đau và tự lành sau một thời gian, bệnh hạ cam các vết loét tồn tại nhiều tháng.

Săng là một sẩn mềm bao quanh bằng hồng ban. Sau đó sẩn thành mủ rồi vỡ ra thành vết loét tròn, kích thước 1-2cm. Bờ vết loét rất rõ, bờ có thể tróc, bờ đôi với 2 viền: trong vàng, ngoài đỏ. Bề mặt vết loét có mủ màu vàng. Nếu rửa sạch mủ sẽ thấy đáy không bằng phẳng, lởm chởm, có những chồi thịt. Săng nằm trên vùng da phù nề mềm, đau nên gọi là hạ cam mềm.

Hạch: được coi là biến chứng của bệnh. Gặp 50% trường hợp. Hạch một bên bẹn sưng to, đỏ và đau. Ít gặp ở nữ.

Vết loét thường thấy ở môi lớn, môi nhỏ, âm vật, tiền đình âm đạo. Vết loét trong âm đạo không đau mà chỉ có mủ chảy ra.

Cận lâm sàng

Nhuộm Gram hoặc Giemsa: trực khuẩn gram âm, ngắn, xếp thành chuỗi song song như đàn cá bơi hoặc dải dài như đường tàu.

Nuôi cấy khó khăn.

Chẩn đoán phân biệt:

Với bệnh giang mai và Herpes sinh dục.

Điều trị

Chuyển điều trị theo chuyên khoa.

BÌNH LUẬN

WORDPRESS: 0